{tocify}


Truyện Nhân Văn

Nguồn: Tổng hợp Internet



Truyện tự dịch


Đây là những câu truyện mình tự dịch theo nguồn từ trang moralstories.org

Chỉ có cái chết chia lìa chúng ta


Khi tôi về nhà vào đêm hôm đó, vợ tôi đang chuẩn bị bữa tối. Tôi nắm tay cô ấy và nói: "Anh có chuyện muốn nói với em". Cô ấy ngồi xuống và ăn trong im lặng. Một lần nữa tôi thấy sự tổn thương trong ánh mắt của cô ấy. Đột nhiên tôi không biết phải làm thế nào để bắt đầu, nhưng tôi phải nói cho cô ấy biết tôi đang nghĩ gì. Tôi muốn ly hôn. 

Cô ấy không hề tỏ vẻ khó chịu, chỉ hỏi tôi tại sao. Tôi né tránh trả lời câu hỏi của cô ấy. Điều đó khiến cô ấy tức giận. Cô ấy vứt đũa và hét vào mặt tôi: "Anh không phải là đàn ông!". Đêm đó, chúng tôi không nói chuyện với nhau. Cô ấy đã khóc. Tôi biết cô ấy muốn tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với cuộc hôn nhân của chúng tôi. Nhưng tôi khó có thể cho cô ấy một câu trả lời thỏa đáng, rằng trái tim tôi đã thuộc về cô gái khác, về Jane. Tôi đã không còn yêu cô ấy nữa, chỉ còn chút lòng thương hại!

Tôi đã soạn sẳn đơn ly hôn, trong đó viết rằng cô ấy có thể sở hữu nhà của chúng tôi, ô tô của chúng tôi và 30% cổ phần trong công ty của tôi. Cô ấy liếc nhìn nó và xé nó thành nhiều mảnh. Người phụ nữ cùng trải qua mười năm cuộc đời với tôi nay sắp trở thành người dưng. Tôi cảm thấy có lỗi vì đã lấy đi thanh xuân của cô ấy nhưng tôi không thể làm gì khác, vì tôi yêu Jane rất nhiều. Cuối cùng, cô ấy khóc lớn trước mặt tôi. Đối với tôi, tiếng khóc của cô ấy thực sự là một kiểu giải thoát. Ý tưởng về một cuộc ly hôn đã ám ảnh tôi trong vài tuần trước, giờ nó đã trở nên rõ ràng hơn.

Ngày hôm sau, tôi trở về nhà rất muộn và thấy cô ấy đang viết gì đó trên bàn. Tôi không ăn tối mà đi thẳng vào phòng ngủ và ngủ thiếp đi rất nhanh. Khi tôi tỉnh dậy, cô ấy vẫn còn ngồi viết. Tôi không quan tâm nên chỉ trở mình và ngủ tiếp.

Buổi sáng hôm sau, cô ấy nêu điều kiện ly hôn. Cô ấy nói cô ấy không cần bất cứ thứ gì ở tôi, nhưng xin cho cô ấy một tháng trước khi ly hôn. Cô ấy yêu cầu rằng trong một tháng đó, cả hai chúng tôi cố gắng sống một cuộc sống bình thường nhất có thể. Lý do cô ấy nêu rất đơn giản. Con trai của chúng tôi đang trong kỳ thi và cô ấy không muốn sự đổ vỡ hôn nhân của chúng tôi ảnh hưởng đến nó.

Điều này tôi có thể đồng ý. Nhưng cô ấy còn một yêu cầu nữa, cô ấy muốn tôi nhớ lại lần tôi đã bế cô ấy vào ngày cưới của chúng tôi. Cô ấy yêu cầu rằng trong suốt một tháng đó, tôi phải bế cô ấy ra khỏi phòng ngủ vào mỗi buổi sáng. Tôi nghĩ rằng cô ấy sắp phát điên, nhưng tôi vẫn chấp nhận yêu cầu kỳ quặc đó.

Tôi nói với Jane về điều kiện ly hôn của vợ tôi. Cô ấy đã cười lớn và cho rằng nó thật ngớ ngẩn. Dù có áp dụng thủ đoạn nào đi chăng nữa thì vợ tôi cũng phải đối mặt với việc ly hôn, Jane khinh bỉ nói.

Tôi và vợ từ lâu đã không còn thân mật nên ngày đầu tiên khi tôi bế cô ấy ra khỏi giường ngủ, cả hai chúng tôi đều tỏ ra bối rối. Nhưng con trai chúng tôi vỗ tay sau lưng: "Bố đang ôm mẹ!". Lời nói của cậu bé làm tôi cảm thấy chua xót. Tôi bế cô ấy từ phòng ngủ ra phòng khách, sau đó ra đến cửa chính. Cô ấy nhắm mắt và nói nhẹ nhàng: "Đừng nói với con trai chúng ta về vụ ly hôn." Tôi gật đầu, cảm thấy có chút gì đó không thoải mái. Tôi đặt cô ấy xuống, một mình lái xe đến văn phòng.

Vào ngày thứ hai, tôi cảm giác bế cô ấy dễ dàng hơn nhiều. Cô ấy dựa vào ngực tôi. Tôi có thể ngửi thấy mùi thơm từ chiếc áo cánh của cô ấy. Tôi nhận ra từ lâu rồi tôi đã không nhìn kỹ khuôn mặt vợ mình. Cô ấy không còn trẻ nữa. Có những nếp nhăn nhỏ trên khuôn mặt, mái tóc của cô ấy đã có vài sợi bạc! Cuộc hôn nhân trắc trở của chúng tôi đã tác động nhiều đến cô ấy. Trong một phút chạnh lòng, tôi tự hỏi mình đã làm gì với cuộc đời cô ấy.

Vào ngày thứ tư, khi tôi bế cô ấy lên, tôi bắt đầu có chút cảm giác thân thuộc ngày xưa. Đây là người phụ nữ đã trao mười năm cuộc đời cho tôi... Vào ngày thứ năm và thứ sáu, tôi nhận ra rằng cảm giác thân thiết của chúng tôi đang dần trở lại. Việc bế cô ấy trở nên dễ dàng hơn khi mỗi ngày lại trôi qua. 

Một buổi sáng nọ, tôi thấy cô ấy loay hoay chọn một chiếc váy để mặc. Cô ấy đã thử khá nhiều bộ váy nhưng không tìm được chiếc nào vừa ý. Sau đó cô ấy thở dài, tất cả những chiếc váy của cô đều quá rộng. Tôi chợt nhận ra rằng cô ấy đã gầy đi rất nhiều, đó là lý do tại sao tôi có thể bế cô ấy dễ dàng hơn. Đột nhiên tim tôi nhói lại. Cô đã chôn chặt quá nhiều nỗi đau và sự cay đắng trong lòng. Trong vô thức, tôi đưa tay ra và khẽ chạm vào đầu cô ấy.

Lúc này con trai chúng tôi bước vào và nói: "Bố ơi, đã đến lúc bế mẹ ra ngoài rồi." Với cậu bé, việc nhìn thấy bố bế mẹ mỗi ngày đã trở thành một điều hiển nhiên. Vợ tôi ra hiệu cho con trai lại gần và ôm nó thật chặt. Tôi quay mặt đi vì sợ mình đổi ý vào phút cuối. Sau đó tôi ôm cô ấy trong tay, đi từ phòng ngủ, qua phòng khách, ra hành lang. Tay cô ấy vòng qua cổ tôi nhẹ nhàng và tự nhiên. Tôi ôm chặt lấy cô ấy, như ngày cưới mười năm về trước của chúng tôi.

Giờ đây, nhìn cơ thể gầy gò của cô ấy khiến tôi khá buồn. Vào ngày cuối cùng của hẹn một tháng, khi tôi ôm cô ấy trong tay, tôi gần như không nỡ rời đi. Sau đó tôi lái xe đến văn phòng và nhảy ra khỏi xe một cách nhanh chóng mà không kịp khóa cửa. Tôi sợ bất kỳ sự chậm trễ nào cũng sẽ khiến tôi thay đổi quyết định. Tôi bước lên lầu. Jane mở cửa và tôi nói với Jane: "Xin lỗi, Jane, tôi không muốn ly hôn nữa."

Jane nhìn tôi, ngạc nhiên, rồi đưa tay sờ trán tôi. "Anh có bị sốt không?". Tôi gạt tay cô ấy ra và nói: "Xin lỗi Jane, nhưng tôi sẽ không ly hôn với vợ mình nữa. Cuộc sống hôn nhân của tôi tẻ nhạt có lẽ vì tôi và vợ không coi trọng những tiểu tiết trong cuộc sống chứ không phải vì chúng tôi không còn yêu nhau. Bây giờ tôi nhận ra rằng ngay từ lúc tôi bế cô ấy vào ngày cưới của chúng tôi, tôi phải giữ lấy cô ấy bên mình trọn đời.

Jane dường như thức tỉnh. Cô ấy giáng cho tôi một cái tát trời giáng rồi đóng sầm cửa lại và bật khóc. Tôi đi xuống cầu thang và lái xe về nhà. Tại cửa hàng hoa trên đường, tôi đặt một bó hoa cho vợ tôi. Cô bán hàng hỏi tôi viết gì trên thẻ. Tôi mỉm cười và viết: "Anh sẽ bế em đi mỗi sáng cho đến khi cái chết chia lìa chúng ta".

Tối hôm đó tôi về đến nhà, bó hoa trên tay, nụ cười trên môi, tôi chạy lên lầu, chỉ thấy vợ tôi trên giường - đã chết.

Vợ tôi đã phải chiến đấu với căn bệnh ung thư trong nhiều tháng nhưng tôi mãi bận rộn với Jane đến mức tôi không hề hay biết. Cô ấy biết rằng cô ấy sẽ chết nhưng cô ấy muốn tôi có được hình ảnh tốt đẹp trong mắt con trai của mình. Ít nhất, trong mắt con trai chúng tôi - tôi là một người chồng mẫu mực luôn yêu thương vợ.

Câu chuyện về cô gái mù


Có một cô gái mù rất chán ghét bản thân vì cô ấy bị mù. Cô ghét tất cả mọi người, trừ người bạn trai luôn yêu thương cô hết lòng. Anh ấy luôn luôn ở bên cạnh cô. Cô nói với anh ấy rằng nếu cô có thể nhìn thấy thế giới, cô sẽ lấy anh.

Một ngày nọ, có ai đó đã tặng cô gái đôi mắt để cô có thể nhìn thấy mọi thứ. Bạn trai hỏi cô: "Bây giờ em đã có thể nhìn thấy thế giới, em sẽ lấy anh chứ?"

Cô gái rất sốc khi thấy bạn trai của mình bị mù nên từ chối anh. Bạn trai của cô đã bỏ đi trong nước mắt và để lại cho cô một bức thư. Bức thư viết: 

"Hãy chăm sóc tốt đôi mắt của anh".

Những dấu đinh


Có một cậu bé tính khí rất nóng nảy. Cha cậu đưa cho cậu một túi đinh và dặn rằng mỗi khi mất bình tĩnh, cậu hãy đóng một cây đinh vào hàng rào.

Ngày đầu tiên cậu bé đã đóng tổng cộng 37 cây đinh. Trong vài tuần tiếp theo, cậu học cách kiềm chế cơn tức giận của mình, số lượng đinh đóng vào hàng rào ít dần. Cậu nhận ra rằng việc giữ bình tĩnh sẽ dễ dàng hơn là dùng sức để đóng những chiếc đinh. Rồi có một ngày nọ cậu không phải đóng một cây đinh nào vì cậu đã có thể kềm chế tốt sự nóng giận của mình. Cậu khoe với cha mình về điều đó và người cha đề nghị rằng bây giờ mỗi khi cậu giữ được bình tĩnh, cậu hãy ra hàng rào nhổ bớt một cây đinh.

Ngày tháng trôi qua, cậu bé cuối cùng cũng có thể nói với cha rằng tất cả những chiếc đinh ở hàng rào đã biến mất. Người cha nắm tay con trai dắt vào hàng rào. Ông nói: “Con đã làm tốt lắm, nhưng giờ con hãy nhìn vào những dấu đinh trên hàng rào. Hàng rào đã không còn được lành lặn như trước. Cũng như khi con nói những điều không hay trong cơn tức giận, chúng sẽ để lại một vết sẹo giống như những chiếc lỗ trên hàng rào này”.

Câu chuyện về lòng tham


Một học sinh hỏi giáo viên của mình: "Lòng tham là gì vậy thầy?" Giáo viên trả lời: “Để trả lời câu hỏi của em, chúng ta hãy đi tham quan nhà máy sản xuất sô cô la bên cạnh trường học của chúng ta, và em được chọn một thanh sô cô la mà em thích nhất. Nhưng có một quy định là khi em đi tham quan nhà máy, em không được quay lại chổ cũ. Em chỉ có thể chọn một thanh sô cô la ngay trước mặt mình."

Cậu học sinh cùng giáo viên đến tham quan nhà máy sản xuất sô cô la. Cậu nhìn thấy một thanh sô cô la được gói rất đẹp, cậu ấy rất thích nó nhưng cậu nghĩ biết đâu cậu có thể tìm thấy một thanh lớn hơn nữa. Vì vậy, cậu đi xa hơn, sau đó cậu cũng tìm thấy được thanh sô cô la to hơn, đẹp hơn thanh lúc nãy. Nhưng một lần nữa, cậu lại nghĩ biết đâu mình lại có thể tìm được thanh lớn hơn nữa. Tuy nhiên khi đến gần cuối nhà máy, cậu đã không thể tìm thấy bất kỳ thanh sô cô la nào lớn như thanh sô cô la mà cậu không chọn trước đó, và cậu bắt đầu hối hận vì quyết định của mình.

Cuối cùng, cậu bỏ cuộc. Cậu quay lại gặp giáo viên của mình với bàn tay trắng và giải thích về những gì mình đã làm.

Giáo viên nói với cậu, "Em đã rất thích một thanh sô cô la nhưng em vẫn tiếp tục tìm kiếm cái lớn hơn. Và sau đó em nhận ra rằng thứ em vừa bỏ qua chính là loại sô cô la ngon nhất mà em có thể tìm thấy. Đó chính là lòng tham. ”.

Giới hạn của sự tử tế


Gần đây Steve bị tai nạn xe hơi. Vì vậy, anh đã đưa chiếc xe hơi của mình vào gara để sửa chữa và đi làm bằng tàu điện ngầm. Một đêm nọ, anh để ý đến một ông lão vô gia cư ngồi ở 1 góc của ga tàu. Anh cảm thấy tội nghiệp ông lão nên đã cho ông ta một ít tiền lẻ trong túi.

Ngày hôm sau, anh lại thấy ông lão vô gia cư đó vẫn ngồi ở chỗ cũ. Lần này, Steve mua cho ông lão một ít đồ ăn. Ông lão cảm ơn sự tử tế của anh. Lúc này, Steve cảm thấy tò mò nên hỏi: "Vì sao ông lại rơi vào hoàn cảnh này?"

Ông lão ngước nhìn anh và nở một nụ cười, ông nói: "Vì thể hiện tình yêu." Steve không hiểu điều ông lão vừa nói, vì vậy anh ấy hỏi thêm: "Ý ông là gì?" Ông lão trả lời: “Trong suốt cuộc đời tôi, tôi luôn cố làm cho mọi người xung quanh tôi hạnh phúc. Tôi luôn giúp đỡ mọi người ngay cả khi cuộc sống tôi đang gặp không ít trở ngại”.

Steve hỏi ông: "Ông có hối hận không?" Người đàn ông vô gia cư trả lời: “Không, nhưng tôi bị tổn thương khi những người mà tôi từng giúp đỡ họ khi họ khó khăn đã không giúp lại tôi khi tôi túng thiếu. Con trai, tốt hơn là con nên tự xây nhà và mời ai đó vào trú ẩn, hơn là tặng cho họ những viên gạch của con khi con đang xây ngôi nhà của mình. Vì một ngày nào đó khi con nhìn lại nơi đã định xây nhà, nó vẫn chỉ là một bãi đất trống. Và con trở thành người phải đi xin gạch ”.

Câu chuyện về người lính


Có một câu chuyện kể về một người lính nọ được trở về nhà sau khoảng thời gian tham chiến ở Việt Nam. Anh ấy gọi cho bố mẹ từ San Francisco. “Bố mẹ ơi, con sắp về rồi, nhưng con có một việc cần xin phép. Con có một người bạn, con muốn dẫn cậu ấy theo về cùng."  Bố mẹ anh trả lời: “Chắc chắn rồi, bố mẹ rất vui được gặp cậu ấy.”

Người con trai tiếp tục: “Nhưng có một điều bố mẹ cần biết, bạn con bị thương khá nặng trong cuộc chiến. Cậu ấy giẫm phải mìn và bị mất một tay, một chân. Cậu ấy không còn nơi nào để dung thân, và con muốn cậu ấy đến sống cùng gia đình mình ”.

“Bố mẹ rất tiếc khi nghe điều đó, con trai. Có lẽ bố mẹ có thể tìm giúp cậu ấy một nơi nào đó để ở tạm ”.

"Không, bố mẹ ạ, con muốn cậu ấy về sống cùng chúng ta."

Người cha nói: “Con trai, con có biết con đang nói gì không? Một người tàn tật như vậy sẽ là một gánh nặng khủng khiếp. Chúng ta còn cuộc sống riêng, chúng ta không thể để những thứ như thế này ảnh hưởng đến cuộc sống của mình. Cha nghĩ con nên về nhà và quên cậu ấy đi. Rồi cậu ấy cũng sẽ tìm ra lối thoát cho cuộc đời mình."

Đúng lúc đó, người con trai cúp máy. Bố mẹ anh không còn nghe thấy tin tức gì thêm. Tuy nhiên, vài ngày sau, họ nhận được cuộc gọi từ cảnh sát San Francisco. Người ta cho biết con trai của họ đã chết sau khi rơi từ một tòa nhà. Cảnh sát tin rằng đó là một vụ tự sát.

Bố mẹ anh đau buồn bay đến San Francisco và được đưa đến nhà xác để nhận dạng con trai họ. Họ nhận ra con trai mình, nhưng trước sự kinh hoàng của họ, họ phát hiện ra rằng con trai họ chỉ còn một tay và một chân.

Mẹ tôi


Mẹ tôi buôn bán tại một sạp nhỏ ngoài chợ trời. Bà ấy hái rau dại và bất cứ thứ gì bán được để bán lấy tiền. Mẹ tôi chỉ có một con mắt, bà ấy thật sự làm tôi cảm thấy xấu hổ. Tôi ghét bà ấy.


Tôi nhớ có một ngày vào mùa gặt, mẹ tôi đã đến trường thăm tôi. Tôi đã rất bối rối. Làm thế nào bà ấy có thể làm điều này với tôi? Tôi ném cho bà ấy cái nhìn đầy tức giận và chạy ra ngoài. Ngày hôm sau bạn học bắt đầu chế nhạo tôi… “Mẹ mày chỉ có một mắt.”

Tôi từng ước rằng mẹ tôi sẽ biến mất khỏi thế giới này. Một ngày nọ tôi đã nói với mẹ: "Mẹ, tại sao mẹ không có con mắt còn lại? Mẹ luôn biến con thành trò cười trong mắt lũ bạn. Tại sao mẹ không chết đi." Ngày đó mẹ chỉ im lặng. Tôi biết là tôi đã nói những điều không phải, nhưng đồng thời, tôi cũng cảm thấy thoải mái vì đã nói ra những gì tôi muốn nói trong suốt thời gian qua.

Đêm đó… tôi thức dậy và đi vào bếp để lấy một cốc nước. Mẹ tôi đã khóc ở đó, rất lặng lẽ, như thể bà sợ rằng bà có thể đánh thức tôi. Tôi nhìn bà ấy, rồi quay đi. Có cái gì đó nhói lên trong tim tôi. Dù vâỵ, tôi vẫn ghét bà ấy. Vì vậy, tôi tự hứa rằng mình sẽ phải thành công trong cuộc sống sau này, bởi vì tôi ghét trông thấy người mẹ một mắt của mình và sự nghèo khó tuyệt vọng của chúng tôi.

Tôi đã học hành rất chăm chỉ. Sau đó tôi rời quê nhà để đến học tại đại học Seoul. Tôi kết hôn. Tôi đã mua một ngôi nhà của riêng mình. Rồi tôi cũng có con. Bây giờ tôi đang sống hạnh phúc với tư cách là một người đàn ông thành đạt. Tôi thích cuộc sống ở đây, nó làm tôi quên đi cuộc sống tủi nhục trước đây ở làng quê với mẹ tôi.

Cuộc sống gia đình tôi ngập tràn hạnh phúc, cho đến một ngày một ai đó bất ngờ đến thăm tôi. Đó là mẹ tôi… với con mắt độc nhất của bà ấy. Tôi cảm thấy như thể cả bầu trời sụp đổ. Con gái nhỏ của tôi đã bỏ chạy, sợ hãi trước ánh mắt của bà ấy.

"Bà là ai? Tôi không biết bà !!” Tôi hét vào mặt mẹ tôi  “Sao bà dám đến nhà tôi và dọa con gái tôi! Ra khỏi đây ngay !! ” Và lúc này, mẹ tôi khẽ trả lời: “Ồ, tôi rất xin lỗi. Tôi có thể đã đi nhầm nhà”và bà ấy biến mất. Ơn trời ... bà ấy không nhận ra tôi. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Tôi tự nhủ rằng mình sẽ không cần bận tâm hay nghĩ gì về điều này trong suốt phần đời còn lại của mình.

Một ngày nọ, một lá thư mời họp lớp thời tiểu học được gởi đến nhà tôi. Tôi đã nói dối vợ rằng tôi phải đi công tác. Sau buổi họp lớp, vì tò mò, tôi đi xuống thăm lại cái lán cũ đã từng là “nhà” ngày xưa của mẹ con tôi. Tôi thấy mẹ tôi nằm gục trên nền đất lạnh với một tờ giấy trong tay…. đó là một lá thư viết cho tôi.

Bà ấy viết:

Con trai của mẹ,

Mẹ nghĩ rằng cuộc đời của mẹ đã đủ dài. Và… mẹ sẽ không đến thăm Seoul nữa… nhưng liệu có quá đáng không nếu mẹ muốn con về thăm mẹ một lần nữa thôi? Mẹ nhớ con nhiều lắm. Mẹ đã rất vui khi biết tin con sẽ về quê mình để tham dự họp lớp. Nhưng mẹ quyết định không đến trường gặp con…. vì con… Mẹ xin lỗi vì mẹ chỉ có một mắt và mẹ đã làm con xấu hổ.

Con biết không, khi con còn rất nhỏ, con đã bị tai nạn và bị hỏng giác mạc một bên mắt. Là người mẹ, mẹ không thể đứng nhìn con mình lớn lên chỉ bằng một con mắt ... vì vậy mẹ đã hiến cho con giác mạc của mẹ ... Mẹ đã rất tự hào khi con trai mình có thể nhìn thấy một thế giới hoàn toàn mới, ở vị trí của mẹ, bằng con mắt của mẹ . Mẹ chưa bao giờ khó chịu với con vì bất cứ điều gì con đã làm. Một đôi lần con đã giận mẹ.  Mẹ tự an ủi "đó là bởi vì con yêu mẹ". Mẹ luôn nhớ những ngày tháng mẹ con mình bên nhau khi con còn nhỏ .

Mẹ nhớ con nhiều lắm. Mẹ rất thương con. Con là cả thế giới của mẹ.

Tim tôi tan vỡ. Người mẹ mà tôi luôn ghét bỏ đó suốt cuộc đời chỉ sống vì tôi. Tôi đã khóc thật nhiều.  Nhưng tôi đã không còn cách nào để sữa chữa và bù đắp cho những điều tồi tệ tôi đã làm với mẹ.

Hoa hồng tặng mẹ


Một người đàn ông dừng lại tại một cửa hàng dự định đặt điện hoa gửi tặng mẹ mình sống cách đó hai trăm dặm. Khi bước ra khỏi xe, anh thấy một cô bé ngồi trên lề đường đang ôm mặt khóc. Anh ấy hỏi cô có chuyện gì thì cô bé trả lời, “Cháu muốn mua một bông hồng đỏ tặng mẹ. Nhưng cháu chỉ có bảy mươi lăm xu, và một bông hồng thì có giá tới hai đô la ”.

Người đàn ông mỉm cười và nói, “Đi vào với chú. Chú sẽ mua cho cháu một bông hồng." Sau đó anh ấy đã mua tặng cho cô bé một bông hồng đồng thời đặt điện hoa cho mẹ mình. Trước khi rời khỏi cửa hàng, anh đề nghị chở cô bé về nhà. Cô bé nói: “Vâng, cám ơn chú! Nhờ chú chở con đến gặp mẹ ”. Cô bé chỉ đường anh đến một nghĩa trang, nơi cô  bé đặt bông hồng lên trên một ngôi mộ còn mới.

Người đàn ông quay lại cửa hàng hoa, hủy điện hoa vừa đặt.  Anh chọn lấy một bó hoa hồng thật đẹp và tự mình lái xe hai trăm dặm về thăm mẹ.

Một giờ


Một ngày nọ, người đàn ông đang làm việc và cậu con trai nhỏ của ông đến và hỏi: "Cha ơi, con có thể hỏi cha một câu được không?" Người cha nói, "Chắc chắn rồi, con muốn hỏi gì?" Cậu hỏi: "Cha, cha kiếm được bao nhiêu một giờ?" Người cha nói với cậu rằng “Cha kiếm được khoảng 50 đô mỗi giờ. ”

“Ồ”, cậu bé cúi đầu. Nhìn lên, cậu bé nói, “Cha có thể cho con xin 30 đô không? ” Người cha tức giận nói: “Nếu lý do con hỏi về tiền lương của cha là để xin tiền mua một món đồ chơi ngớ ngẩn hoặc những thứ vô nghĩa, thì hãy đi về phòng và đi ngủ.”

Cậu bé lặng lẽ về phòng và đóng cửa lại. Người đàn ông ngồi xuống và cảm thấy rất tức giận với cậu bé. Tuy nhiên sau khoảng một giờ, người đàn ông đã bình tĩnh lại và bắt đầu nghĩ, “Có lẽ có thứ gì đó mà thằng bé thực sự muốn mua” Người đàn ông đi đến cửa phòng của cậu bé và mở cửa. "Con đang ngủ à, con trai?" Người đàn ông hỏi. “Không thưa cha, con chưa ngủ” cậu bé trả lời. “Cha nghĩ, có lẽ lúc nãy cha đã quá khắt khe với con”, cha cậu nói. "Hôm nay cha có một ngày dài làm việc mệt mỏi và cha đã trút sự bực bội lên con. Đây là 30 đô mà con muốn có".

Cậu bé ngồi thẳng dậy, mỉm cười "Ồ, cảm ơn cha!". Sau đó, cậu thò tay xuống dưới gối, lấy ra thêm một số tờ tiền. Người đàn ông, khi thấy cậu bé có sẵn một số tiền, lại bắt đầu tức giận: "Con có tiền tại sao còn xin thêm?" người cha càu nhàu. “Bởi vì con không có đủ tiền, nhưng bây giờ thì đủ rồi cha ạ.” cậu bé trả lời. “Cha, con đã có đủ 50 đô ở đây. Con có thể mua một giờ thời gian của cha không? Hãy về sớm vào ngày mai. Con muốn cha ăn tối với gia đình ”.

Cái bánh quy bị khét


Khi tôi còn nhỏ, mẹ tôi thường hay tự mình chuẩn bị bữa ăn cho gia đình. Và tôi luôn nhớ một đêm nọ khi mẹ chuẩn bị bữa tối cho chúng tôi sau một ngày dài làm việc mệt mỏi. Mẹ tôi đã đặt trước mặt bố tôi một đĩa trứng, xúc xích và vài chiếc bánh quy bị cháy khét. Tôi nhớ là mình đã cố chờ xem bố có để ý thấy gì khác thường không! Tuy nhiên, tất cả những gì bố làm là đưa tay lấy bánh quy, mỉm cười với mẹ và hỏi tôi ngày hôm nay ở trường học hành như thế nào. Tôi không nhớ mình đã nói gì với bố vào đêm hôm đó, nhưng tôi nhớ đã nhìn thấy bố bôi bơ và mứt lên những chiếc bánh quy đó và ăn từng miếng ngon lành!

Khi tôi rời khỏi bàn ăn vào buổi tối hôm đó, tôi nghe thấy tiếng mẹ tôi xin lỗi bố vì đã lỡ tay làm cháy bánh. Và tôi sẽ không bao giờ quên những gì bố đã trả lời mẹ: “Em yêu, anh thích ăn bánh quy bị nướng khét”.

Tối hôm đó, tôi đến hôn bố chúc ngủ ngon và tôi hỏi bố có thực sự là bố thích ăn bánh quy bị cháy không. Bố tôi ôm tôi vào lòng và nói: “Hôm nay mẹ của con đã có một ngày làm việc vất vả và mẹ thực sự mệt mỏi. Và dù sao thì một chút bánh quy bị khét cũng không tổn thương ai! ”

Cái bát gỗ


Một ông cụ già yếu đến ở với gia đình con trai, và cháu trai bốn tuổi. Ông lão đã già yếu, tay chân run rẩy, mắt mờ và bước đi loạng choạng. Gia đình họ thường cùng nhau dùng bữa tối. Nhưng do mắt mờ tay yếu, việc ăn uống của ông cụ trở nên khá khó khăn. Ông hay làm rơi thức ăn xuống nền nhà và làm đổ sữa ra khăn trải bàn.

Anh con trai và con dâu trở nên khó chịu vì điều đó. “Chúng ta phải làm điều gì đó với tình trạng của cha”, anh con trai nói. "Anh không còn chịu nổi việc cha cứ làm đổ sữa ra bàn, ăn uống ồn ào, và để thức ăn rơi vãi trên nền nhà." Vậy là vợ chồng anh kê một chiếc bàn nhỏ trong góc. Tại đó, ông cụ ngồi ăn một mình trong khi vợ chồng anh cùng nhau thưởng thức bữa tối. Và vì ông cụ hay làm rơi vỡ bát đĩa, nên thức ăn của ông ấy được đựng trong một chiếc bát gỗ! Khi liếc nhìn về nơi ông ngồi, đôi khi họ thấy ông rơm rớm nước mắt. Tuy nhiên, những lời mà cặp đôi dành cho ông chỉ là những lời cằn nhằn khi ông làm rơi nĩa hoặc làm đổ thức ăn.

Một buổi tối khi gia đình chuẩn bị bữa ăn tối, anh con trai thấy đứa con bốn tuổi của mình đang nghịch những mảnh gỗ vụn trên sàn nhà. Anh nhẹ nhàng hỏi đứa trẻ, "Con đang làm gì vậy?" Cậu bé đáp lại một cách ngọt ngào: "Ồ, con đang làm một cái bát gỗ để bố mẹ ăn khi bố mẹ già đi." Đứa bé mỉm cười và tiếp tục nghịch.

Những lời nói của đứa trẻ khiến vợ chồng anh không nói nên lời. Nước mắt bắt đầu chảy dài trên má.

Tối hôm đó, anh nắm tay cha mình, nhẹ nhàng dẫn ông trở lại bàn ăn của gia đình. Và vì lý do nào đó, cả hai vợ chồng anh dường như không còn quan tâm đến những chiếc nĩa bị rơi, sữa bị đổ hay chiếc khăn trải bàn bị bẩn nữa.

Tình chị em vĩnh cửu


Tôi sinh ra trong một ngôi làng hẻo lánh trên núi. Ngày qua ngày, bố mẹ tôi phải bán mặt cho đất, bán lưng cho trời cày xới mảnh đất đá vàng khô cằn của mình. Có một lần, tôi muốn mua một chiếc khăn tay mà hầu như mọi cô gái trong làng đều có. Vì vậy, một ngày nọ, tôi đã lấy trộm 50 xu từ ngăn kéo của cha tôi. Cha phát hiện ra ngay số tiền bị mất trộm.

"Ai đã lấy trộm tiền?" Cha hỏi hai chị em tôi. Tôi sợ hãi không nói nên lời. Không ai thừa nhận mình lấy trộm, vì vậy cha tôi nói: "Tốt thôi, nếu không đứa nào nhận, vậy thì phạt cả hai đứa" Đột nhiên, em trai tôi nắm chặt lấy tay cha và nói: "Cha, con lấy trộm đó!" Em trai tôi đã nhận tội, và chịu sự trừng phạt, thay tôi.

Nửa đêm, đột nhiên tôi bật khóc. Em trai tôi lấy tay che miệng tôi và nói: “Chị, đừng khóc nữa. Chuyện qua rồi”. Tôi sẽ không bao giờ quên vẻ mặt của em trai khi nó cố gắng bảo vệ tôi. Đến giờ tôi vẫn hận bản thân không đủ dũng khí để thừa nhận những gì mình đã làm. Năm đó, em tôi 8 tuổi và tôi 11 tuổi. 

Khi em trai tôi học năm cuối cấp hai, em ấy được nhận vào một trường trung học phổ thông ở trung tâm thị trấn. Đồng thời, tôi cũng được nhận vào một trường đại học trên địa bàn tỉnh. Đêm đó, cha ngồi xổm ngoài sân, hút từng gói thuốc. Tôi có thể nghe thấy tiếng cha hỏi mẹ: “Hai đứa con của chúng ta, chúng có kết quả học tập tốt không? Kết quả rất tốt phải không? ” Mẹ lau nước mắt thở dài, “Có ích gì? Làm thế nào chúng ta có thể nuôi cả hai đứa nó ăn học? "

Lúc đó, em trai tôi bước ra ngoài, đứng trước mặt cha và nói: “Cha, con không muốn tiếp tục học nữa, con đã học đủ rồi”. Cha trở nên tức giận. “Tại sao con lại nói như vậy? Ngay cả khi phải đi ăn xin ngoài đường, cha cũng sẽ lo cho hai con ăn học đến khi thành tài! ” Và sau đó, cha bắt đầu đi gõ cửa từng nhà trong thôn để vay tiền.

Tôi đưa tay khẽ chạm nhẹ vào mặt em trai tôi và nói: “Em phải tiếp tục việc học của mình. Nếu không, em sẽ không thể thoát được cảnh nghèo đói của gia đình chúng ta”. Lúc đó, tôi quyết định không học tiếp lên đại học.

Nhưng không ngờ rằng vào hôm sau, trước khi trời tờ mờ sáng, em tôi đã rời khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ và một ít hạt đậu khô. Em tôi đã để lại lời nhắn trên gối của tôi, “Chị ơi, đậu được đại học không dễ đâu. Em sẽ đi tìm một công việc và em sẽ gửi tiền phụ cha lo cho chị ăn học”. Tôi ôm mảnh giấy ngồi trên giường, khóc cho đến khi mất giọng.

Với số tiền cha vay mượn cả xóm và số tiền em tôi kiếm được từ việc vác xi măng cho các công trường xây dựng, cuối cùng tôi cũng học được năm thứ ba đại học. Năm đó, em tôi 17 tuổi và tôi 20 tuổi.

Một ngày nọ, khi tôi đang ngồi học trong phòng, bạn cùng phòng bước vào và nói với tôi: "Có một người dân trong làng đang đợi bạn ở bên ngoài!" Tại sao dân làng lại đến tìm tôi? Tôi bước ra ngoài, và tôi nhìn thấy em trai tôi từ xa. Toàn thân em ấy dính đầy bụi đất, xi măng và cát. Tôi hỏi em ấy, "Tại sao em không nói với bạn chị rằng em là em trai của chị?"

Em trai tôi cười đáp: “Chị nhìn vẻ ngoài của em đi. Họ sẽ nghĩ gì nếu họ biết rằng em là em trai của chị? Họ sẽ cười nhạo chị đấy." Tôi xúc động, nước mắt tôi trào ra. Tôi phủi sạch bụi bẩn bám trên người em trai và nghẹn ngào nói: "Chị không quan tâm những gì mọi người sẽ nói! Cho dù ngoại hình em có như thế nào đi nữa , em vẫn là em trai của chị”.

Em trai tôi lấy ra một chiếc kẹp tóc hình con bướm từ trong túi, cài nó lên tóc tôi và nói: "Em thấy mọi  cô gái trong thị trấn đều có nó. Em nghĩ chị cũng nên có một cái." Tôi không thể kìm được nữa. Tôi kéo em tôi vào lòng và khóc. Năm đó, em tôi 20 tuổi và tôi 23 tuổi.

Sau khi kết hôn, tôi lên thành phố sinh sống. Nhiều lần chồng tôi mời bố mẹ tôi về ở cùng nhưng họ không muốn. Cha mẹ tôi nói một khi rời làng, họ sẽ không biết phải làm gì. Em trai tôi cũng đồng ý với họ. Em ấy nói: “Chị ơi, chị chỉ cần chăm sóc bố mẹ chồng thôi. Em sẽ lo cho bố mẹ ở quê”.

Khi chồng tôi trở thành giám đốc tại nhà máy anh ấy làm, chúng tôi đã đề nghị em trai tôi làm quản lý bộ phận bảo trì. Nhưng em trai tôi đã từ chối lời đề nghị đó. Em ấy cứ khăng khăng muốn tiếp tục công việc của một thợ sửa chữa chứ không muốn có khởi đầu mới.

Một ngày nọ, em trai tôi đang sửa chữa dây cáp thì bị điện giật té ngã phải nhập viện. Vợ chồng tôi đến thăm em ấy tại bệnh viện. Nhìn vào chân em tôi, tôi càu nhàu: “Tại sao em lại từ chối lời đề nghị làm quản lý? Làm quản lý sẽ không phải làm những công việc nguy hiểm như thế này. Bây giờ hãy nhìn em đi - em bị chấn thương nặng như vậy. Tại sao em không nghe lời anh chị? "

Em tôi cương quyết bảo vệ quyết định của mình: “Chị hãy nghĩ cho anh rể, anh ấy vừa trở thành giám đốc. Nếu một người như em, không có học thức, lại trở thành một nhà quản lý, thì những lời dèm pha sẽ bay khắp nơi như thế nào? ” Chồng tôi rơm rớm nước mắt, rồi tôi nói: "Nhưng em học ít cũng bởi vì chị mà!". Em trai tôi nắm lấy tay tôi cười nói: "Chị nhắc quá khứ làm gì?". Năm đó, em tôi 26 tuổi còn tôi 29 tuổi. 

Năm 30 tuổi, em tôi cưới một cô gái cùng làng. Trong tiệc cưới, vị chủ hôn hỏi em tôi: "Ai là người mà anh quý trọng và yêu thương nhất?". Không mất thời gian suy nghĩ, em ấy trả lời: “Chị tôi.” Sau đó em tôi ấy kể một câu chuyện mà chính tôi còn không thể nhớ nổi. “Khi tôi học cấp 1, trường tôi nằm ở một ngôi làng khác. Hàng ngày, tôi và chị gái phải đi bộ 2 tiếng để đến trường và về nhà. Một ngày nọ, tôi bị mất một trong những chiếc găng tay của mình. Chị tôi đã cho tôi một chiếc găng. Chị ấy chỉ đeo một chiếc găng tay và chị ấy phải đi bộ một quãng đường rất xa giữa trời rét. Khi chúng tôi về đến nhà, tay của chị tôi run lên vì thời tiết lạnh giá. Chị ấy thậm chí không thể cầm đũa của mình. Kể từ ngày đó, tôi đã thề rằng chỉ cần tôi còn sống, tôi sẽ lo cho chị tôi và luôn tốt với cô ấy.

Tiếng vỗ tay vang lên khắp phòng. Tất cả các vị khách đều hướng sự chú ý vào tôi. Tôi xúc động nói: “Trong cả cuộc đời tôi, người tôi muốn cảm ơn nhất chính là em trai mình.” Và trong dịp hạnh phúc này, trước mặt đám đông, nước mắt tôi lại lăn dài trên má.

Cánh diều không dây


Một lần có hai cha con đi tham dự lễ hội thả diều. Cậu con trai nhỏ rất vui khi nhìn thấy bầu trời đầy những cánh diều rực rỡ. Cậu xin cha mình mua cho cậu một con diều để cậu có thể thả như mọi người. Vì vậy, người cha đã đến cửa hàng bán diều nơi tổ chức lễ hội để mua cho cậu một con diều, một cuộn dây và một con lăn cho con trai mình.

Cậu con trai bắt đầu thả diều. Chẳng mấy chốc, cánh diều của cậu đã bay cao trên bầu trời. Một lúc sau, người con nói: “Thưa cha, có vẻ như sợi dây đang giữ không cho cánh diều bay cao hơn. Nếu chúng ta cắt nó, con diều sẽ được tự do và sẽ bay cao hơn nữa. Chúng ta có thể làm thế không? ” Nghe thế người cha đã cắt sợi dây khỏi con lăn. Không còn bị sợi dây giữ lại, con diều bắt đầu bay cao hơn. Điều đó làm cho cậu con trai rất hạnh phúc.

Nhưng ngay sau đó, cánh diều bắt đầu dần dần rơi xuống. Cuối cùng nó rơi xuống sân thượng của một tòa nhà gần đó. Cậu con trai nhỏ rất ngạc nhiên khi thấy điều này. Cậu muốn cắt đứt sợi dây là để con diều có thể bay cao hơn, nhưng thay vì vậy, nó lại rơi xuống. Cậu hỏi cha: “Thưa cha, con nghĩ rằng sau khi cắt sợi dây thì con diều có thể tự do bay cao hơn nữa. Nhưng tại sao nó lại rơi xuống? ”

Người cha giải thích: “Con à, ở đỉnh cao của cuộc đời, chúng ta thường nghĩ chúng ta bị ràng buộc bởi một số thứ và nó đang ngăn cản chúng ta tiến xa hơn. Nhưng thực tế không phải vậy. Sợi dây không phải đang giữ không cho cánh diều bay cao hơn, mà nó hỗ trợ cánh diều giữ độ cao khi không có gió và khi gió nổi lên, con có thể giúp cánh diều bay cao bằng cách điều khiển sợi dây. Khi chúng ta cắt đi sợi dây, cánh diều đã rơi xuống vì không còn nhận được sự hỗ trợ của con thông qua sợi dây”.

Bữa tối có gì?


Một người đàn ông cho rằng vợ mình có vấn đề về thính giác và anh nghĩ rằng cô ấy có thể phải cần đến sự trợ giúp của máy trợ thính. Tuy nhiên do không chắc chắn lắm về điều đó, anh ấy đã gọi cho bác sĩ để thảo luận vấn đề. Bác sĩ nói với anh ta rằng có một bài kiểm tra đơn giản mà anh có thể thực hiện để giúp ông có thể đánh giá rõ hơn về tình trạng thính giác của vợ anh.

"Đây là những gì anh cần làm," Bác sĩ nói, "hãy đứng cách cô ấy khoảng 40 feet, và nói chuyện bình thường xem cô ấy có nghe thấy anh nói không. Nếu không, hãy đi tới 30 feet, rồi 20 feet, v.v. cho đến khi anh nhận được phản hồi ".

Tối hôm đó, người vợ đang ở trong bếp chuẩn bị bữa tối. Ở ngoài sân anh bắt đầu nói: "Tôi đang ở cách vợ tôi khoảng 40 feet, hãy xem điều gì sẽ xảy ra." Sau đó, với một giọng nhẹ nhàng, anh ấy hỏi, "Em yêu, bữa tối có gì?". Không có phản hồi nào từ người vợ.

Thấy vậy, người chồng di chuyển đến gần nhà bếp hơn, cách vợ khoảng 30 feet và lặp lại, "Em yêu, bữa tối có gì?" Vẫn không có phản hồi.

Tiếp theo, anh ta di chuyển vào phòng ăn, nơi anh ta cách vợ khoảng 20 feet và hỏi, "Em yêu, bữa tối có gì? ”

Một lần nữa, anh ta không nghe thấy vợ trả lời nên anh ta đi lên cửa bếp, cách đó khoảng 10 feet. "Em yêu, bữa tối có gì?". Vẫn không có phản hồi.

Vì vậy, anh ấy đi đến ngay phía sau lưng người vợ và hỏi: "Em yêu, bữa tối có gì?"

"James, đây là lần thứ năm em nói, GÀ!"

Ba kiểu người


Một giáo viên cho học sinh xem ba món đồ chơi và yêu cầu học sinh tìm ra sự khác biệt. Cả ba món đồ chơi này dường như giống hệt nhau về hình dạng, kích thước và chất liệu. Sau một hồi quan sát, học sinh quan sát thấy một số lỗ trên đồ chơi. Đồ chơi thứ nhất có lỗ ở 2 bên tai. Đồ chơi thứ 2 có lỗ ở tai và miệng. Đồ chơi thứ 3 chỉ có một lỗ ở một bên tai.

Sau đó, với 1 cây kim, học sinh đặt kim vào lỗ tai của đồ chơi thứ nhất. Cây kim bị rơi ra ngoài từ tai bên kia. Ở đồ chơi thứ 2, cây kim bị rơi ra từ miệng. Và ở đồ chơi thứ 3, kim không bị rơi ra.

Đồ chơi đầu tiên đại diện cho những người luôn cố tạo ra ấn tượng rằng họ quan tâm tất cả mọi thứ về bạn. Nhưng thật ra họ chỉ giả vờ làm như vậy. Sau khi nghe bạn tâm sự, như cây kim rơi ra từ tai này sang tai kia, những điều bạn tin tưởng nói với họ, họ sẽ không còn bận tâm đến nó nữa. Vì vậy, hãy cân nhắc khi nói chuyện với những người người như vậy, họ thật sự chẳng hề quan tâm đến bạn.

Đồ chơi thứ hai đại diện cho những người cũng lắng nghe tất cả mọi điều từ bạn và cũng tạo ấn tượng rằng họ quan tâm đến bạn. Nhưng cũng như với đồ chơi thứ hai, cây kim sẽ lọt ra từ miệng. Những người này sẽ sử dụng những câu chuyện mà bạn kể với họ để chống lại bạn bằng cách kể lại cho người thứ ba những bí mật của bạn nhằm mục đích riêng của họ.

Ở đồ chơi thứ ba, cây kim không bị rơi ra. Nó đại diện cho kiểu người sẽ tôn trọng niềm tin mà bạn dành cho họ. Họ là những người chúng ta có thể tin tưởng.

Sợ hãi hay tôn trọng


Cách đây rất lâu, một vị vua tàn ác tên là Virat cai trị thành phố Nagar. Tất cả thần dân đều sợ hãi vì sự tàn ác của hắn.

Virat có một con chó tên Jack, hắn yêu quý nó hơn tất cả mọi thứ trên đời. Vào một buổi sáng định mệnh Jack chết. Virat đã tổ chức nghi lễ cuối cùng cho con chó, toàn bộ dân cư thành phố đều đến đưa tiễn. Virat lấy đó làm vui vì nghĩ mọi người đến vì yêu mến mình. Hắn cảm thấy mình là vị vua được tôn trọng nhất trên thế giới. Tuy nhiên khi Virat qua đời, không một ai đến dự đám tang của hắn.

Anh nông dân và con rắn


Một người nông dân đi ngang qua cánh đồng của mình vào một buổi sáng mùa đông lạnh giá. Anh ta thấy trên mặt đất có một con rắn, bị đông cứng vì lạnh. Người nông dân biết con rắn có nọc độc chết người như thế nào, nhưng vì lòng trắc ẩn anh ta vẫn nhặt nó lên và cho vào ngực để sưởi ấm cho nó.

Con rắn nhanh chóng hồi phục, và khi đủ mạnh, nó cắn mạnh vào người đàn ông vừa cứu nó. Vết cắn gây chết người, người nông dân biết mình sắp phải chết. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, anh ấy nói với những người đứng xung quanh: “Hãy rút kinh nghiệm từ số phận của tôi, đừng thương hại một kẻ vô lại”.

Câu lạc bộ 99


Có một vị vua nọ, mặc dù cực kỳ giàu có nhưng không bao giờ cảm thấy hạnh phúc. Một ngày nọ, nhà vua bắt gặp một người hầu đang hát hò vui vẻ trong lúc làm việc. Điều này khiến nhà vua vô cùng kinh ngạc, tại sao ông ta, một đấng thống trị tối cao của đất nước, lại luôn sầu muộn trong khi một người hầu thấp hèn lại có nhiều niềm vui đến vậy. Vua hỏi người hầu: "Tại sao ngươi lại hạnh phúc như vậy?"

Người hầu trả lời: "Bệ hạ, tôi chỉ là một người hầu, nhu cầu của tôi và gia đình không có gì nhiều, chúng tôi chỉ cần một mái nhà che đầu và thức ăn nóng để no bụng là đủ để hạnh phúc." Nhà vua cảm thấy không thỏa mãn với câu trả lời đó. Cuối ngày, ông tìm kiếm lời khuyên từ vị quân sư tin cậy nhất của mình. Sau khi nghe nổi niềm của nhà vua và câu chuyện về người hầu, quân sư của ông nói, "Bệ hạ, thần tin rằng người hầu đó chưa trở thành một phần của Câu lạc bộ 99."

"Câu lạc bộ 99? Chính xác thì nó là gì? " Vua hỏi. Vị quân sư trả lời: "Thưa Bệ hạ, để thực sự biết Câu lạc bộ 99 là gì, bệ hạ hãy đặt 99 đồng tiền vàng vào một chiếc túi và đặt nó ở trước cửa nhà người hầu đó." Và thế là nhà vua ra lệnh cho làm theo những gì vị quân sư nói. Khi người hầu nhìn thấy chiếc túi, anh ta mang nó vào nhà. Khi mở túi ra, anh ta hét lên vui sướng" "Thật nhiều tiền vàng!" Anh ta bắt đầu đếm chúng. Sau nhiều lần đếm, cuối cùng anh ta cũng chắc chắn rằng chỉ có 99 đồng vàng. Người hầu tự hỏi: “Điều gì đã xảy ra với đồng tiền vàng thứ 100? Chắc chắn không thể chỉ có 99 đồng vàng!”

Người hầu tìm mọi nơi có thể, nhưng vẫn không thể tìm được đồng tiền vàng cuối cùng đó. Cuối cùng, anh ta quyết định rằng mình sẽ làm việc chăm chỉ hơn bao giờ hết để kiếm được được một đồng tiền vàng và hoàn thành bộ sưu tập của mình. Kể từ ngày đó, cuộc sống của người hầu đã thay đổi. Anh ta đã làm việc cật lực, luôn cáu kỉnh, trách móc gia đình mình không chịu giúp anh ta tạo ra đồng tiền vàng thứ 100. Anh ta cũng không còn hát trong lúc làm việc. Chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ của người hầu, nhà vua cảm thấy khó hiểu. Khi nhà vua tìm gặp quân sư của mình, vị quân sư nói, "Bệ hạ, người hầu đó hiện đã chính thức gia nhập Câu lạc bộ 99."

Vị quân sư tiếp tục: “Câu lạc bộ 99 là cái tên đặt cho những người có đủ điều kiện để sống hạnh phúc phúc nhưng họ vẫn không bao giờ bằng lòng với hiện tại, bởi vì họ luôn khao khát có thêm cái còn thiếu. Họ luôn tự nhủ:“ Hãy cho tôi cái duy nhất còn thiếu và rồi tôi sẽ sống hạnh phúc suốt đời ”.

Câu chuyện thành công của Thomas Edison


Thời thơ ấu Edison được cha mẹ gởi vào học tại một trường nọ. Sau một vài ngày, Thomas Edison đi học về và đưa cho mẹ một bức thư. Ông nói với mẹ mình rằng cô giáo gởi bức thư này cho mẹ và dặn chỉ có mẹ mới được mở nó ra. Khi mẹ ông đọc bức thư đó, bà đã ứa nước mắt. "Trong đấy viết gì thế mẹ?", Edison hỏi. Mẹ ông đã đọc bức thư cho ông nghe:

"Con trai của bà là một thiên tài. Ngôi trường này quá nhỏ bé đối với cậu ấy và không đủ giáo viên giỏi để dạy dỗ cậu ấy. Xin bà hãy tự dạy con mình."

Nhiều năm về sau, khi mẹ của Edison mất, ông đã là một trong những nhà phát minh vĩ đại nhất của thế kỷ. Một ngày nọ, ông kiểm tra tủ của mình và tìm thấy một bức thư, và đó cũng chính là bức thư mà cô giáo năm xưa đã viết cho mẹ ông. Edison mở bức thư và đọc nó:

"Con trai của bà bị nghiện. Chúng tôi sẽ không chấp nhận cho nó đến trường nữa."

Edison đã khóc trong nhiều giờ và sau đó ông viết trong nhật ký của mình:

"Thomas Alva Edison, từ một đứa trẻ nghiện ngập đã trở thành thiên tài của thế kỷ, nhờ bà mẹ anh hùng của ông ấy"

Học hỏi từ sai lầm


Thomas Edison đã thử hai nghìn vật liệu khác nhau để tìm kiếm chất thích hợp làm dây tóc cho bóng đèn. Khi mãi vẫn chưa tìm được vật liệu phù hợp, trợ lý của ông phàn nàn, “Tất cả những việc chúng ta đã làm đều vô ích. Chúng ta không đạt được kết quả gì, tôi không chắc liệu chúng ta có thể sử dụng điện đúng cách hay không." 

 Edison trả lời một cách tự tin: "Ồ, chúng ta đã có một bước tiến dài và chúng ta cũng đã học được nhiều điều đó chứ. Chúng ta đã biết được có hai ngàn vật liệu không thể dùng làm dây tóc bóng đèn."

Điểm yếu của cậu bé


Một cậu bé 10 tuổi quyết định theo học Judo dù cậu đã bị mất cánh tay trái trong một vụ tai nạn xe hơi.

Cậu bắt đầu theo học Judo với một vị võ sư già người Nhật Bản. Cậu thể hiện rất tốt, vì vậy cậu không thể hiểu tại sao sau ba tháng huấn luyện, thầy cậu chỉ dạy cậu đúng một thế võ. “Thầy à,” cuối cùng cậu cũng hỏi, "Con không nên học thêm chiêu thức khác hay sao?". Thầy cậu trả lời: "Đây là thế võ duy nhất mà con biết, nhưng cũng là thế võ duy nhất con cần biết."

Dù không hiểu lắm nhưng cậu vẫn tin tưởng vào người thầy của mình và tiếp tục tập luyện thế võ đó. Vài tháng sau, người thầy đưa cậu đi tham gia giải đấu đầu tiên của mình. Chính cậu cũng bất ngờ với khả năng của mình khi dễ dàng giành chiến thắng trong hai trận đấu đầu tiên. Trận thứ ba có khó khăn hơn một chút, nhưng sau một thời gian, đối thủ của cậu trở nên nóng nảy và lao vào; cậu đã khéo léo sử dụng thế võ của mình để giành chiến thắng. Cậu đã giành được quyền có mặt trong trận chung kết.

Lần này, đối thủ của cậu lớn hơn, mạnh hơn và kinh nghiệm hơn cậu nhiều. Thi đấu được một lúc, cậu tỏ ra yếu thế hơn hẳn so với đối thủ. Lo ngại cậu có thể bị chấn thương, trọng tài đã cho dừng trận đấu. Tuy nhiên thầy của cậu đã can thiệp: "Không," thầy cậu nói: "Hãy để cậu bé tiếp tục thi đấu". Sau khi trận đấu được tiếp tục, đối thủ của cậu đã chủ quan và mắc một sai lầm nghiêm trọng. Ngay lập tức, cậu dùng thế võ độc nhất của mình để ghìm anh ta xuống. Cậu đã thắng trận đấu quan trọng và trở thành nhà vô địch.

Trên đường về nhà, cậu cùng thầy xem lại mọi diễn biến của từng trận đấu. Sau đó cậu lấy hết can đảm để hỏi điều mà cậu đang rất thắc mắc:

"Thầy ạ, làm thế nào mà con có thể giành chiến thắng trong suốt giải đấu chỉ với một thế võ?"

"Con đã thắng vì hai lý do," thầy cậu trả lời. “Thứ nhất, con gần như đã thành thạo một trong những cú ném khó nhất trong môn judo. Và thứ hai, cách để phòng thủ duy nhất với thế võ đó, là phải nắm được cánh tay trái của đối thủ. "

Điểm yếu lớn nhất giờ đã trở thành điểm mạnh lớn nhất của cậu.

Hai mẹ con lạc đà


Hai mẹ con lạc đà đang nằm nghỉ, và đột nhiên lạc đà con hỏi mẹ: “Mẹ ơi, con có thể hỏi mẹ một số câu hỏi được không?" Lạc đà mẹ trả lời: “Chắc chắn rồi! Sao vậy con, con gặp vấn đề gì à?" Lạc đà con hỏi: "Tại sao lạc đà có bướu?" Lạc đà mẹ nói: “Chà con trai, chúng ta là động vật sinh sống ở sa mạc, chúng ta cần những cái bướu để chứa nước và chúng ta nổi tiếng là có thể tồn tại trong sa mạc mà không cần nước trong thời gian dài”.

Lạc đà con tiếp tục: "Vậy tại sao chân chúng ta dài và bàn chân chúng ta tròn?" Lạc đà mẹ trả lời: “Con trai, chúng như thế là để giúp ta có thể đi trong sa mạc dễ dàng. Con biết đấy với đôi chân này, ta có thể di chuyển quanh sa mạc thuận lợi hơn bất kỳ ai! ” Lạc đà con lại hỏi: “Vậy tại sao lông mi của chúng ta lại dài? Đôi khi nó cản trở tầm mắt của con”. Lạc đà mẹ trả lời với niềm tự hào: “Con trai của mẹ, đôi lông mi dài và dày là để bảo vệ con khỏi cát và gió sa mạc ”.

Lạc đà con suy nghĩ một lúc rồi nói: “Con hiểu rồi. Vậy cái bướu là để trữ nước khi chúng ta ở trong sa mạc, đôi chân dài là để đi xuyên qua sa mạc và đôi lông mi này bảo vệ đôi mắt của con khỏi gió cát sa mạc. Vậy thì chúng ta đang làm gì đây ở trong sở thú này!? ”

Giữ lấy ước mơ


Tôi có một người bạn tên là Monty Roberts, ông là chủ một trang trại nuôi ngựa ở San Ysidro. Ông ấy đã cho tôi sử dụng ngôi nhà của ông ấy để tổ chức các sự kiện nhằm gây quỹ cho các chương trình giúp thanh thiếu niên khó khăn.

Lần cuối cùng khi tôi có mặt tại đó, ông ấy đã giới thiệu tôi với mọi người: “Tôi muốn cho các bạn biết lý do tại sao tôi để Jack sử dụng căn nhà của tôi. Tất cả được bắt đầu với câu chuyện về một cậu bé là con trai của một  huấn luyện ngựa lưu động, người phải đi từ chuồng ngựa này đến chuồng ngựa khác, từ đường đua này đến đường đua khác, từ trang trại này đến trang trại khác để huấn luyện ngựa. Hậu quả là việc học của cậu bé liên tục bị gián đoạn. Khi còn là một học sinh cuối cấp, cậu bé ấy được yêu cầu viết một bài luận văn về việc cậu ấy muốn trở thành người như thế nào và sẽ làm những gì khi lớn lên."

"Đêm đó, cậu ấy đã viết một bài luận dài bảy trang mô tả mục tiêu của mình là một ngày nào đó sẽ sở hữu một trang trại nuôi ngựa. Cậu ấy viết về giấc mơ của mình rất chi tiết và thậm chí cậu ấy còn vẽ sơ đồ của một trang trại rộng 200 mẫu, cho thấy vị trí của tất cả các tòa nhà, chuồng ngựa và đường đua. Sau đó, cậu còn vẽ sơ đồ mặt bằng một ngôi nhà rộng 4.000 foot vuông nằm ngay trong trang trại mơ ước của cậu."

"Cậu ấy đã đặt rất nhiều tâm huyết của mình vào bài luận và ngày hôm sau cậu ấy nộp nó cho giáo viên của mình. Hai hôm sau cậu nhận lại bài luận của mình. Trên trang nhất là chữ F lớn màu đỏ với dòng chữ: 'Gặp tôi sau giờ học.' "

"Cậu bé đến gặp giáo viên sau giờ học và hỏi: 'Tại sao em lại bị điểm F?' "

"Thầy giáo trả lời: 'Đó là một ước mơ viển vông đối với một cậu bé như em. Em không có tiền. Em đến từ một gia đình có cuộc sống rày đây mai đó. Em không có tài sản gì cả. Để sở hữu một trang trại ngựa đòi hỏi phải có rất nhiều tiền. Em phải mua đất. Em phải trả tiền cho việc gây giống ngựa ban đầu và sau đó em còn phải trả một khoản phí lớn cho việc chăm sóc chúng. Không có cách nào em có thể làm được.' Sau đó, giáo viên còn nói thêm: ' Nếu em viết lại bài báo này với một mục tiêu thực tế hơn, tôi sẽ xem xét lại điểm của em.' "

"Cậu bé về nhà và suy nghĩ về những điều thầy giáo vừa nói thật lâu. Cậu hỏi cha cậu nên làm gì. Cha cậu nói: 'Con trai, chuyện này con phải tự mình quyết định. Nhưng cha nghĩ đó sẽ là một quyết định rất quan trọng đối với con.' "

"Cuối cùng, sau một tuần nghiền ngẫm, cậu bé nộp lại bài luận mà không thay đổi bất cứ điều gì. Cậu nói: 'Thầy có thể giữ điểm F và em sẽ giữ giấc mơ của mình.' "

Sau đó Monty quay sang đám đông đang tụ tập và nói, “Tôi kể cho các bạn nghe câu chuyện này bởi vì các bạn đang đứng trong ngôi nhà rộng 4.000 foot vuông, ở giữa trang trại ngựa rộng 200 mẫu của tôi. Bài luận đó tôi vẫn giữ, nó được đóng khung treo bên trên lò sưởi. ”

Ông nói thêm:" Phần hay nhất của câu chuyện là cách đây hai mùa hè, người giáo viên năm xưa có đưa 30 học sinh đến thăm trang trại của tôi trong một tuần. Khi người giáo viên ra về, ông ấy nói: 'Nghe này Monty, bây giờ tôi có thể nói với cậu điều này. Khi tôi là còn là giáo viên, tôi là một kẻ đánh cắp giấc mơ. Trong những năm tháng đó, tôi đã đánh cắp rất nhiều giấc mơ của bọn trẻ. May mắn thay, cậu có đủ bản lĩnh để không từ bỏ giấc mơ của mình. "

Đừng để bất cứ ai đánh cắp ước mơ của bạn. Dù có thế nào đi nữa, hãy theo những gì trái tim mách bảo.

Jack Canfield.

Đôi tay cầu nguyện


Quay trở lại thế kỷ mười lăm, trong một ngôi làng nhỏ gần Nuremberg, có một gia đình nghèo với mười tám người con. Để nuôi sống gia đình lớn của mình, người cha, vốn là một thợ kim hoàn, đã phải làm việc gần mười tám giờ một ngày tại cửa hàng của mình. Để có thêm tiền trang trải cho cuộc sống, ông cũng nhận bất kỳ công việc nào mà ông có thể tìm thấy trong làng. Bất chấp tình trạng dường như vô vọng của họ, hai người con lớn của ông có niềm đam mê nghệ thuật cháy bỏng. Cả hai đều muốn theo đuổi con đường nghệ thuật của mình, nhưng họ cũng biết rằng cha họ sẽ không bao giờ có đủ khả năng tài chính để gửi họ đến Học viện nghệ thuật tại Nuremberg.

Sau nhiều đêm thảo luận trên chiếc giường chật chật hẹp, hai chàng trai cuối cùng thống nhất với nhau rằng họ sẽ tung một đồng xu. Người thua cuộc sẽ đi làm tại các hầm mỏ gần đó để kiếm tiền nuôi người còn lại theo học tại học viện. Người được đi học trước sau khi hoàn thành khóa học của mình tại học viện sẽ kiếm tiền lo cho người còn lại đi học, dù có phải bán tranh, hay làm việc tại các hầm mỏ.

Họ tung đồng xu vào một buổi sáng Chủ nhật sau khi đi nhà thờ. Albrecht Durer, đã thắng cuộc và giành được quyền đến Nuremberg theo đuổi đam mê nghệ thuật của mình. Còn người anh tên Albert phải đến làm việc tại hầm mỏ trong bốn năm tiếp theo, kiếm tiền để lo cho em trai mình ăn học. Tại học viện, Albrecht có những bước tiến thần tốc trên con đường nghệ thuật của mình. Các bản khắc, tranh khắc gỗ, tranh sơn dầu của Albrecht thậm chí còn hoàn hảo hơn nhiều so với hầu hết các giáo sư dạy anh. Vào thời điểm tốt nghiệp, Albrecht bắt đầu kiếm được một khoản tiền kha khá cho các tác phẩm của mình.

Khi người nghệ sĩ trẻ tốt nghiệp trở về làng , gia đình Durer đã tổ chức một bữa tiệc tối trên bãi cỏ nhà họ để ăn mừng. Sau bữa ăn thịnh soạn đầy tiếng nhạc và tiếng cười, Albrecht đứng dậy nâng ly cám ơn người anh trai yêu quý vì những năm tháng hy sinh để giúp Albrecht thực hiện hoài bão của mình . Anh ấy nói: “Và bây giờ, anh Albert, người anh yêu quý của em, giờ đã đến lượt anh. Bây giờ anh có thể đến Nuremberg để theo đuổi ước mơ nghệ thuật của mình. Em sẽ lo cho anh”.

Tất cả mọi người đều hướng về phía cuối bàn nơi Albert ngồi. Anh chỉ cúi mặt, lắc đầu, những giọt nước mắt chảy dài trên khuôn mặt nhợt nhạt của anh.

Cuối cùng, Albert đứng dậy, lau những giọt nước mắt. Anh lần lượt nhìn những gương mặt anh yêu mến, rồi đưa tay ôm mặt, nhẹ nhàng nói: “Không, em ơi. Anh không thể đến Nuremberg nữa rồi. Đã quá muộn với anh. Hãy nhìn xem đôi tay anh bị hủy hoại như thế nào sau bốn năm làm việc trong hầm mỏ! Xương ở mỗi ngón tay đã bị dập nát ít nhất một lần, và gần đây, anh còn bị viêm khớp ở bàn tay phải đến nỗi anh thậm chí còn không thể cầm ly rượu để chúc mừng em. Em ơi, đối với anh, đã là quá muộn rồi.”

Hơn 450 năm đã trôi qua. Cho đến nay, hàng trăm bức chân dung tuyệt tác, bản phác thảo, màu nước, than chì, tranh khắc gỗ và bản khắc đồng của Albrecht Durer được treo ở khắp các bảo tàng lớn trên thế giới. Nhưng rất có thể bạn, cũng như hầu hết mọi người, đều chỉ biết đến một tác phẩm nổi tiếng nhất của Albrecht Durer. Không chỉ đơn thuần biết, rất có thể có một bản sao của tác phẩm đấy được treo trong nhà hoặc văn phòng của bạn.

Người ra kể lại rằng, để bày tỏ lòng biết ơn đối với Albert vì tất cả những gì anh ấy đã hy sinh, Albrecht Durer đã vẽ một tác phẩm tái hiện đôi bàn tay không còn lành lặn của anh trai mình, đôi bàn tay áp vào nhau như đang cầu nguyện, những ngón tay gầy guộc duỗi thẳng lên trời. Ông gọi bức vẽ của mình chỉ đơn giản là “Đôi tay”, nhưng cả thế giới gần như ngay lập tức đón nhận kiệt tác vĩ đại của ông, và đặt tên cho tác phẩm của ông là “Đôi tay cầu nguyện”.

Người thông minh nhất thế giới


Một bác sĩ, một luật sư, một cậu bé và một linh mục cùng đi trên một chiếc máy bay tư nhân nhỏ vào một chiều Chủ nhật. Đột nhiên chiếc máy bay gặp sự cố động cơ. Bất chấp những nỗ lực của viên phi công, máy bay bắt đầu lao xuống. Cuối cùng, viên phi công đành nắm lấy một chiếc dù và hét lên với 4 hành khách rằng họ nên nhảy xuống. 

 Thật không may, chỉ còn lại ba chiếc dù. 

Ông bác sĩ liền chộp lấy ngay một chiếc dù, ông nói "Tôi là bác sĩ, tôi có thể cứu người, vì vậy tôi phải sống." và nhảy khỏi máy bay. 

Ngài luật sư cũng kêu lên: “ Tôi là luật sư, và luật sư là những người thông minh nhất trên đời. Tôi xứng đáng được sống.“ Thế là ông ta cũng chộp lấy một chiếc dù và nhảy ngay lập tức. 

Vị linh mục nhìn cậu bé và nói: “Con trai của ta, ta đã sống đủ lâu và trọn vẹn. Con còn trẻ, còn cả một hình trình dài phía trước. Hãy lấy chiếc dù cuối cùng và sống một cuộc đời viên mãn”. 

Cậu bé trao lại chiếc dù cho vị linh mục và nói: “Cha đừng lo. Người đàn ông thông minh nhất thế giới vừa nhảy khỏi máy bay với chiếc ba lô của con”.

Cuộc gặp gỡ của cậu bé với Chúa


Một cậu bé bị hấp dẫn bởi những câu chuyện về Chúa nên quyết tâm đi gặp Chúa. Cậu biết đó sẽ là một chuyến đi dài, vì vậy cậu đã chuẩn bị một túi hành lý gồm rất nhiều bánh quy và một ấm trà để bắt đầu cuộc hành trình của mình.

Cậu đi vòng quanh ba dãy nhà và dừng lại trước một công viên tuyệt đẹp. Cậu ngồi xuống chiếc ghế dài bên cạnh một người phụ nữ lớn tuổi. Bà ấy chỉ chăm chăm nhìn đàn chim bồ câu. Cậu mở túi, lấy bánh ra và rót một ít trà. Thấy người phụ nữ trông có vẻ đang đói, cậu mời bà ấy ăn bánh quy và cùng uống trà. Người phụ nữ vui vẻ nhận lấy và mỉm cười với cậu.

Cậu bé cảm thấy rất vui! Họ ngồi đó cả buổi chiều, mỉm cười, ăn bánh quy, uống trà, nhưng họ không nói một lời.

Trời tối dần, cậu bé bắt đầu cảm thấy mệt, cậu đứng dậy định đi về nhưng được vài bước thì cậu quay lại, chạy tới ôm người phụ nữ lớn tuổi. Bà ấy cũng trao cho cậu một nụ cười tươi nhất có thể. Một lúc sau, khi cậu về tới nhà, mẹ cậu rất ngạc nhiên khi nhìn thấy vẻ mặt rạng rỡ của cậu. Mẹ cậu hỏi: "Hôm nay con đã làm những gì mà trông con vui thế?" Cậu trả lời: "Hôm nay con đã ăn trưa với Chúa mẹ ạ" Nhưng, trước khi mẹ cậu có thể hỏi thêm, cậu nói tiếp: “Và bà ấy có nụ cười đẹp nhất mà con từng thấy! ”

Trong khi đó, người phụ nữ lớn tuổi, cũng vui vẻ trở về nhà của mình. Con trai của bà cảm thấy lạ khi nhìn thấy vẻ mặt thư thái của bà nên anh hỏi: "Mẹ, có chuyện gì mà sao hôm nay trông mẹ hạnh phúc vậy?" Bà ấy trả lời: " Hôm nay mẹ đã ăn bánh quy và uống trà với Chúa trong công viên." Bà nói thêm: "Con biết không, ông ấy trẻ hơn nhiều so với mẹ hình dung."

Bộ rễ khỏe mạnh


Có hai người hàng xóm sống cạnh nhau. Một người là giáo viên đã nghỉ hưu, còn một người là nhân viên bảo hiểm. Cả hai người đều trồng rất nhiều loại cây khác nhau trong khu vườn của họ. Ông giáo về hưu thường chỉ tưới cây với một lượng nước vừa đủ và không phải lúc nào cũng quan tâm đến chúng, trong khi người hàng xóm thì tưới rất nhiều nước và chăm sóc vườn cây của mình rất kỹ.

Cây trong vườn của ông giáo không có gì nổi bật nhưng nhìn cũng khá ổn. Ngược lại cây trồng của anh nhân viên bảo hiểm thì trông cứng cáp và xanh tốt hơn rất nhiều. Một đêm nọ, trời mưa to gió lớn do ảnh hưởng của một cơn bão. Sáng hôm sau, cả hai người cùng ra vườn để kiểm tra thiệt hại do cơn bão gây ra. Anh nhân viên bảo hiểm thấy cây trồng trong vườn của mình đa phần bị bật gốc, đứt rễ và chết. Còn cây cối của ông giáo không hề hấn gì.

Anh nhân viên bảo hiểm đã rất ngạc nhiên, anh đến gặp ông giáo và hỏi: “Cả hai chúng ta đều trồng cùng một loại cây, tôi lại chăm sóc vườn cây của tôi kỹ hơn ông, thậm chí còn tưới cho chúng nhiều nước hơn. Tuy nhiên cây tôi trồng lại bị bật gốc, còn cây trong vườn của ông thì không. Tại sao lại thế? ”

Ông giáo mỉm cười nói: “Cậu quan tâm chăm sóc kỹ lưỡng cây trồng của mình và tưới nước đều đặn, nhưng cũng chính vì vậy mà chúng không cần phải cố gắng nhiều để sinh tồn. Cậu đã làm cho nó có được mọi thứ thật dễ dàng. Trong khi đó tôi chỉ cho chúng một lượng nước vừa đủ và để bộ rễ của nó tự tìm thêm nước. Do đó bộ rễ của chúng đâm sâu hơn xuống đất, giúp nó trở nên cứng cáp hơn. Đó là lý do tại sao vườn cây của tôi sống sót khi cơn bão đi qua ”.

Ngọn đèn của ông lão mù


Ở một một thị trấn nhỏ có một ông lão mù sống một mình. Ông luôn mang theo theo một chiếc đèn dầu được thắp sáng trên tay mỗi khi ra ngoài vào ban đêm. Tất cả những người sống trong thị trấn đều nghĩ ông không được bình thường.

Một đêm nọ khi ông lão đang trên đường về nhà, ông tình cờ gặp một nhóm du khách trẻ tuổi. Họ thấy ông bị mù nhưng vẫn cầm đèn trên tay nên chế giễu ông ta:

"Này ông! Ông bị mù không thể nhìn thấy gì! Tại sao ông lại mang theo cái đèn vậy? ”

Ông lão trả lời: “Đúng vậy, thật không may là tôi bị mù và tôi không thể nhìn thấy gì ngoài chiếc đèn này. Nhưng nó không phải dành cho tôi mà để dành cho những người mắt sáng như các bạn. Các bạn có thể không nhìn thấy tôi đang đi và va phải tôi. Đó là lý do tại sao tôi phải mang theo một ngọn đèn được thắp sáng.”

Nhóm du khách cảm thấy xấu hổ và xin lỗi ông vì sự lỗ mãng của mình.

Cây tếch kiêu hãnh


Trong rừng nọ có một cây tếch kiêu hãnh. Nó cao lớn và mạnh mẽ. Bên cạnh nó là một cây thảo mộc nhỏ bé.

Cây tếch nói: “Tôi đẹp và mạnh mẽ. Không ai có thể đánh bại tôi ”. Nghe vậy, thảo mộc trả lời: “Bạn thân mến, tự phụ quá nhiều sẽ có hại. Ngay cả những kẻ mạnh nhất cũng sẽ gục ngã vào một ngày nào đó ”.

Cây tếch phớt lờ lời nói của thảo mộc. Nó tiếp tục khen ngợi bản thân. Một cơn gió mạnh thổi qua, cây tếch đứng hiên ngang trong gió. Ngay cả khi trời mưa to, cây tếch vẫn vững vàng vươn lá.

Trong khi đó, thảo mộc phải nằm rạp xuống. Cây tếch lấy đó làm vui và cười nhạo thảo mộc. Một ngày nọ, có một cơn bão đi ngang qua rừng. Như thường lệ, thảo mộc lại cuối đầu còn cây tếch thì không.

Cơn bão cứ mạnh dần lên. Cây tếch không thể chống chịu được nữa. Nó cảm thấy sức mạnh của mình đang mất dần. Nó cố gắng hết sức để đứng thẳng, nhưng cuối cùng, nó đã ngã xuống. Đó là kết cục của một cây tếch kiêu hãnh.

Khi cơn bão qua đi, thảo mộc lại vươn mình. Nó nhìn xung quanh, cây tếch kiêu hãnh đã không còn nữa.

Chú mèo Xấu Xí


Mọi người trong khu tôi sống đều biết Xấu Xí là ai. Nó là con mèo hoang sống ở khu chung cư. Xấu Xí thích nhất ba thứ trên đời: đánh nhau với những con mèo khác, ăn đồ thừa, và thích được vỗ về.

Tính cách của nó cộng với việc phải sống lang thang ngoài đường đã ảnh hưởng rất nhiều đến ngoại hình của Xấu Xí. Xấu Xí chỉ còn một mắt, mắt còn lại chỉ là một cái lỗ. Nó cũng bị mất một bên tai. Bàn chân trái từng bị chấn thương nặng, dù đã lành lại nhưng cũng khiến nó bị tật.

Xấu Xí hẳn là một con mèo mướp, kiểu sọc dưa, với những vết lở loét trên đầu, cổ và thậm chí cả trên vai của nó. Mỗi khi ai đó nhìn thấy Xấu Xí đều có cảm nghĩ giống nhau: "Thật là một con mèo xấu xí"

Tất cả những đứa trẻ được khuyên không nên chạm vào Xấu Xí, người lớn thì ném đá nó, xịt nước vào nó, ném nó đi khi nó cố gắng chui vào nhà của họ, hoặc kẹp bàn chân của nó vào cánh cửa khi nó không chịu rời đi. Trước thái độ của họ, Xấu Xí luôn có những phản ứng giống nhau.

Nếu bạn xịt nước vào nó, nó sẽ vẫn đứng đó, chịu trận cho đến khi bạn bỏ cuộc. Nếu bạn ném đồ đạc vào người nó, nó sẽ cuộn tròn cơ thể cao lêu nghêu của mình quanh chân bạn để mong được tha thứ.

Bất cứ khi nào nó thấy bọn trẻ, nó sẽ chạy đến, kêu gào điên cuồng và dụi đầu vào tay chúng, cầu xin chút tình yêu từ chúng.

Nếu bạn ẳm nó lên, nó sẽ ngay lập tức dụi đầu vào áo sơ mi, vào hoa tai của bạn, hoặc bất cứ thứ gì nó thấy.

Một ngày nọ, Xấu Xi cố thể hiện sự thân thiện của mình với những con chó của người hàng xóm. Nhưng nó đã không được đáp lại một cách tử tế, Xấu Xí bị cắn trọng thương. Tôi đã cố gắng chạy đến cứu nó. Vào thời điểm tôi đến, nó đang nằm hấp hối. Cuộc đời đáng buồn của Xấu Xí đã gần kết thúc...

Tôi bế nó lên và định đem nó về nhà, tôi có thể nghe thấy thấy tiếng nó thở khò khè, vật vã. Tôi nghĩ nó đang trong cơn đau khủng khiếp.

Sau đó, tôi cảm thấy một cảm giác nhồn nhột quen thuộc trên tai mình. Xấu Xí, trong cơn đau đớn, rõ ràng đang hấp hối, vẫn cố gắng dụi đầu vào tai tôi. Tôi kéo nó lại gần tôi, nó dùng đầu khẽ chạm vào lòng bàn tay tôi, sau đó nó hướng con mắt nhìn về phía tôi, tôi có thể nghe thấy âm thanh rõ ràng của tiếng gừ gừ...

Ngay cả trong cơn đau đớn khủng khiếp nhất, con mèo tên Xấu Xí đó cũng chỉ cầu xin một chút tình cảm, có lẽ là một chút lòng trắc ẩn. Tại thời điểm đó, tôi nghĩ Xấu Xí là sinh vật đẹp đẽ, đáng yêu nhất mà tôi từng biết. Chưa một lần nào nó cố gắng cắn hay cào xé tôi, chưa bao giờ cố gắng né tránh tôi hay vùng vẫy bằng mọi cách. Xấu Xí nhìn tôi như tin tưởng rằng tôi sẽ làm giảm bớt sự đau đớn của nó.

Xấu Xí đã chết trong vòng tay của tôi trước khi tôi có thể mang nó vào nhà. Tôi đã ngồi và ôm nó thật lâu, nghĩ mãi về chuyện làm thế nào mà một sinh vật nhỏ bé đầy sẹo, dị dạng lại có thể thay đổi quan điểm của tôi về điều gì mới thật sự là một thứ tình cảm trong sáng và thuần khiết.

Xấu xí đã dạy tôi về sự cho đi và lòng trắc ẩn nhiều hơn bất cứ cuốn sách, bài giảng hay chương trình nào, và tôi sẽ luôn biết ơn vì điều đó. Nó có những vết sẹo ở bên ngoài, còn tôi có sẹo ở trong lòng, và đã đến lúc tôi phải tiếp tục học cách yêu thương thật lòng và sâu sắc. Để trao đi tất cả cho những gì tôi yêu mến.

Nhiều người muốn giàu có hơn, thành công hơn, được nhiều người yêu thích hơn, xinh đẹp hơn, nhưng đối với tôi, tôi sẽ luôn cố tỏ ra Xấu Xí.

Tờ hai mươi đô la


Một diễn giả nổi tiếng bắt đầu buổi hội thảo của mình bằng cách giơ ra một tờ 20 đô la. Trong căn phòng với khoảng hai trăm thính giả, anh hỏi: "Ai muốn tờ 20 đô la này?"

Những bàn tay bắt đầu giơ lên. Anh ấy nói: "Tôi sẽ đưa tờ 20 đô la này cho một trong số các bạn - nhưng trước tiên, hãy để tôi làm điều này."

Anh ta tiếp tục vò tờ 20 đô la. Sau đó anh ta hỏi: "Còn ai muốn nó không?" Những bàn tay vẫn tiếp tục giơ lên cao.

"Chà," anh ta nói, "nếu tôi làm điều này thì sao?" Anh ta thả nó xuống sàn và bắt đầu giẫm giầy lên. Sau đó anh ta nhặt nó lên, tờ tiền giờ đã nhàu nát và bẩn thỉu. "Bây giờ, còn ai muốn lấy nó không?"

Vẫn còn những bàn tay giơ cao.

"Các bạn của tôi, các bạn đã học được một bài học vô cùng quý giá. Dù tôi có làm gì với tờ tiền, các bạn vẫn muốn có nó vì nó không hề giảm giá trị. Nó vẫn là tờ hai mươi đô la. Nhiều lần trong đời, chúng ta bị bỏ rơi, bị giầy vò, bị vẩn đục bởi hoàn cảnh hoặc những quyết định sai lầm. Chúng ta cảm thấy như thể chúng ta thật vô dụng, nhưng cho dù bất cứ điều gì đã xảy ra hoặc sẽ xảy ra, chúng ta sẽ không bao giờ mất đi giá trị của mình.

Dù bẩn hay sạch, dù nhàu nát hay tinh xảo, bạn vẫn vô giá đối với những người yêu mến bạn. Giá trị cuộc sống của chúng ta không phải quyết định bởi những gì chúng ta làm, hoặc những người chúng ta biết, mà là bởi ... chúng ta là ai.

Bạn là người đặc biệt - đừng bao giờ quên điều đó.

Cây phiền muộn


Người thợ mộc mà tôi thuê giúp tôi sửa sang lại trang trại cũ đã có một ngày làm việc không được suông sẻ cho lắm. Lốp xẹp khiến anh ta loay hoay mất cả tiếng đồng hồ, chiếc cưa điện bị hỏng, giờ thì chiếc xe bán tải cổ lỗ của anh lại không chịu nổ máy. Trong lúc tôi chở anh ấy về nhà, anh ấy chỉ ngồi im lặng.

Đến nơi, anh ấy mời tôi vào nhà. Khi chúng tôi chuẩn bị bước vào nhà, anh ấy dừng lại ở một cái cây nhỏ, đưa hai tay chạm nhẹ vào đầu cành. Bước vào nhà, anh ấy như trở thành con người khác. Khuôn mặt rám nắng nở nụ cười tươi, anh ôm lấy hai đứa con nhỏ và hôn vợ.

Sau đó, anh tiễn tôi ra cổng. Chúng tôi đi ngang qua cái cây lúc trước và sự tò mò của tôi ngày càng lớn hơn. Tôi hỏi anh ấy về những gì anh đã làm với cái cây trước đó.

“Ồ, đó là cây phiền muộn của tôi,” anh ta trả lời - “Tôi biết những rắc rối trong công việc là không thể tránh khỏi, nhưng có một điều chắc chắn rằng tôi không muốn mang theo những rắc rối đó về nhà cho vợ và các con tôi. Vì vậy, tôi treo chúng lên cây mỗi tối khi tôi về nhà, rồi sáng mai tôi lại nhặt chúng lên. "

Anh ta dừng lại. "Điều thú vị là," anh ta cười, "sáng ra khi nhặt chúng lên, nó đã không còn nhiều như lúc tôi treo chúng lên vào đêm hôm trước."

Hạt cát của sự tha thứ


Chuyện kể rằng có hai người bạn đi bộ qua sa mạc. Trong một số thời điểm của cuộc hành trình, họ cãi nhau và một người đã tát vào mặt người kia.

Người bị tát đau đớn, nhưng không nói gì, viết trên cát:

"Hôm nay người ban thân nhất của tôi đã tát vào mặt tôi"

Họ tiếp tục đi bộ cho đến khi tìm thấy một ốc đảo, nơi họ quyết định đi tắm. Người bị tát mắc kẹt trong vũng lầy và bắt đầu đuối nước, nhưng người bạn đã cứu anh ta.

Hồi phục sau cái chết cận kề, anh ấy đã viết lên trên một phiến đá:

"Hôm nay người bạn thân nhất của tôi đã cứu tôi"

Người bạn đã hỏi anh ta: "Tại sao khi tôi làm tổn thương bạn, bạn viết trên cát còn bây giờ bạn lại viết trên đá?"

Anh ta trả lời: "Khi ai đó làm tổn thương chúng ta, chúng ta nên viết nó xuống cát, nơi những ngọn gió của sự tha thứ có thể xóa nó đi. Nhưng khi ai đó làm điều gì đó tốt cho chúng ta, chúng ta phải khắc nó vào đá, nơi không cơn gió nào có thể xóa đi được."

Chạy qua cơn mưa


Một cô bé cùng mẹ đi mua sắm ở Target. Cô bé khoảng 6 tuổi, khuôn mặt xinh đẹp, ngây thơ với mái tóc đỏ và tàn nhang. Bên ngoài trời đang đổ mưa. Mưa tuôn xối xả, tràn cả ra ngoài máng xối, rơi ào ào xuống đất. Chúng tôi đứng nép dưới mái hiên, ngay phía sau cánh cửa của Target.

Chúng tôi chờ tạnh mưa, một số kiên nhẫn, nhưng một số khác lại tỏ ra bực bội vì thiên nhiên làm xáo trộn một ngày vội vã của họ. Tôi luôn bị mê hoặc bởi những cơn mưa. Tâm trí tôi như bị lạc trong âm thanh và cảnh tượng bầu trời đang được mẹ thiên nhiên rửa sạch bụi bẩn. Ký ức về thời thơ ấu vô tư chạy nhảy tung tăng chợt ùa về làm tôi vơi đi những phiền muộn trong ngày.

Bỗng một giọng nói nhỏ ngọt ngào phá vỡ trạng thái trầm tư của chúng tôi: "Mẹ, mình chạy xuyên qua mưa đi", cô bé nói. "Gì?" Người mẹ hỏi.

"Mình chạy xuyên qua mưa thôi!" Cô bé lặp lại.

"Không, con yêu à. Chúng ta sẽ đợi cho đến khi mưa nhỏ hơn tý nữa," người mẹ trả lời.

Đứa trẻ đợi khoảng một phút sau đó tiếp tục lặp lại, "Mẹ, mình chạy xuyên qua mưa đi"

"Chúng ta sẽ bị ướt nếu chúng ta làm thế," người mẹ nói.

"Không, chúng ta sẽ không, mẹ ạ. Đó không phải là những gì mẹ nói sáng nay", cô bé kéo cánh tay mẹ mình và nói.

"Sáng nay? Khi nào mẹ nói chúng ta có thể chạy qua cơn mưa mà không bị ướt?"

"Mẹ không nhớ sao? Khi mẹ nói chuyện với bố về căn bệnh ung thư của bố, mẹ đã nói," Nếu Chúa có thể giúp ta vượt qua giai đoạn này, Chúa cũng có thể giúp ta vượt qua bất cứ điều gì! "

Đám đông vẫn im lặng. Tôi thề là bạn không thể nghe thấy gì ngoài tiếng mưa rơi. Tất cả chúng tôi đều đứng ngây ra đó, không ai đến hoặc rời đi trong vài phút. Người mẹ dừng lại và suy nghĩ một lúc về những gì cô sắp nói. Một số người chắc sẽ cười nhạo và mắng cô ấy là ngớ ngẩn. Nhưng đây lại là một khoảnh khắc ảnh hưởng đến cuộc đời của một đứa trẻ. Khoảng khắc mà niềm tin ngây thơ có thể được nuôi dưỡng thành đức tin.

"Con yêu, con hoàn toàn đúng. Chúng ta hãy chạy xuyên qua mưa. Nếu Chúa để chúng ta bị ướt, có lẽ là vì chúng ta cần được gội rửa", người mẹ nói.

Sau đó, họ bắt đầu chạy. Tất cả chúng tôi đứng nhìn, mỉm cười khi thấy họ lao qua những chiếc xe và băng qua những vũng nước. Họ bị ướt. Một vài người làm theo, bất chấp trời mưa cũng chạy đến những chiếc xe của họ, la hét và cười đùa như những đứa trẻ.

Và vâng, tôi cũng thế. Tôi cũng chạy. Tôi bị ướt. Tôi cũng cần được gội rửa.

Hoàn cảnh có thể lấy đi của cải vật chất, có thể lấy đi tiền bạc, có thể lấy đi sức khỏe của bạn. Nhưng không ai có thể lấy đi những kỷ niệm quý giá của bạn ... Vì vậy, đừng quên dành thời gian và cơ hội để tạo nên những kỷ niệm mỗi ngày.

Tôi hy vọng bạn vẫn dành thời gian để chạy qua những cơn mưa.

Chiếc hộp đựng những nụ hôn


Câu chuyện quay ngược lại một khoảng thời gian trước đây. Có một người đàn ông đã trừng phạt con gái 3 tuổi của mình vì lãng phí một cuộn giấy gói quà màu vàng. Do khả năng tài chính eo hẹp nên anh ta đã rất tức giận khi đứa trẻ cố gắng trang trí một chiếc hộp quà để đặt dưới cây thông Noel.

Tuy nhiên, cô bé đã mang hộp quà đến cho bố vào sáng hôm sau và nói: “Bố, đây là món quà cho bố."

Người đàn ông bối rối vì phản ứng thái quá trước đó của anh ta, nhưng cơn tức giận của anh ta lại bùng lên khi thấy bên trong chiếc hộp trống rỗng.

Anh mắng cô bé: "Con không biết là khi tặng quà cho ai đó, bên trong phải có thứ gì đó hay sao?"

Cô bé nước mắt lưng tròng nhìn anh và khóc: "Bố, nó không trống rỗng đâu ạ. Con đã thổi những nụ hôn vào chiếc hộp. Tất cả đều dành cho bố, bố ạ".

Người cha cảm thấy đau nhói. Anh vòng tay ôm cô gái nhỏ của mình và cầu xin cô bé tha thứ.

Sau này, một vụ tai nạn đã cướp đi sinh mạng của đứa trẻ. Người ta kể lại rằng cha của cô luôn giữ chiếc hộp quà đó bên giường của mình trong nhiều năm và bất cứ khi nào nản lòng, sẽ lấy ra một nụ hôn tưởng tượng và nhớ về tình yêu của đứa con gái đã đặt vào trong chiếc hộp.

Một ly sữa


Có một cậu bé nghèo bán hàng rong để kiếm tiền trang trải việc học. Một ngày nọ cậu cảm thấy đói nhưng trong túi chỉ còn một đồng xu. Cậu quyết định sẽ sang nhà bên xin một bữa ăn. Tuy nhiên, cậu cảm thấy bối rối khi thấy một phụ nữ trẻ xinh đẹp ra mở cửa. Thay vì xin một bữa ăn, cậu chỉ xin một ly nước. Người phụ nữ thấy cậu có vẻ đang đói nên mang cho cậu một ly sữa lớn. Cậu uống từ từ rồi hỏi:

"Cháu phải trả cô bao nhiêu?"

Người phụ nữ trả lời:

"Cháu không phải trả cái gì cả. Mẹ cô đã dạy cô không bao giờ nhận tiền trả cho sự tử tế."

Cậu bé cảm kích đáp:

"Vậy cháu cám ơn cô từ sâu thẳm trái tim."

Khi Howard Kelly rời khỏi ngôi nhà đó, cậu không chỉ cảm thấy mạnh mẽ hơn, mà niềm tin của cậu vào Chúa và con người cũng mãnh liệt hơn. Trước đó cậu gần như đã đầu hàng số phận.

Nhiều năm sau, người phụ nữ trẻ đó bị ốm nặng. Các bác sĩ địa phương không đủ khả năng chữa trị. Cuối cùng, họ đã gửi cô đến thành phố lớn, nơi họ mời các bác sĩ chuyên khoa đến để nghiên cứu căn bệnh hiếm gặp của cô. Tiến sĩ Howard Kelly đã được gọi đến để tham vấn. Khi ông nghe thấy tên thị trấn mà cô đến, một tia sáng ánh lên trong mắt ông. Ngay lập tức ông đứng dậy và đi xuống đại sảnh của bệnh viện để đến phòng cô.

Mặc chiếc áo choàng của bác sĩ, ông vào gặp cô. Ông nhận ra cô ngay lập tức. Ông quay lại phòng hội chẩn với quyết tâm làm hết sức mình để cứu sống cô. Kể từ ngày đó, ông dành sự quan tâm đặc biệt cho trường hợp của cô.

Sau một thời gian dài, nỗ lực của ông cũng được đền đáp, bệnh của cô đã được chữa khỏi. Tiến sĩ Kelly yêu cầu bệnh viện chuyển hóa đơn viện phí đến cho ông.

Ông nhìn tờ hóa đơn, rồi viết gì đó lên mép tờ hóa đơn và gửi đến phòng cô. Cô lo lắng mở nó ra, vì cô sợ rằng mình sẽ phải dành cả phần đời còn lại để trả nợ viện phí. Cuối cùng khi cô nhìn vào tờ hóa đơn, có thứ gì đó thu hút sự chú ý của cô ở mặt bên của tờ hóa đơn.

Cô ấy đọc những dòng chữ này:

"Đã thanh toán bằng một ly sữa."

Chú chó bị tật


Một chủ cửa hàng thú cưng có một lứa chó con mới. Một cô gái trẻ đi ngang qua cửa hàng và thấy một tấm biển ghi: “Bán chó con”.

Cô rất háo hức muốn vào xem.Cô ấy hỏi người chủ, "Những con chó con giá bao nhiêu?" Ông chủ cửa hàng trả lời, "Tất cả đều khoảng 50 đô."

Cô gái vét sạch tiền trong túi và nói với chủ cửa hàng rằng cô chỉ có khoảng 2 đô la, nhưng cô vẫn muốn xem những chú chó con.

Chủ cửa hàng huýt sáo gọi lũ chó. Năm con chó lon ton chạy ra trước, một con khập khiễng theo sau. Cô gái ngay lập tức chỉ con chó con bị tụt lại và hỏi chủ cửa hàng nó bị làm sao.

Ông chủ giải thích rằng con chó bị dị tật bẩm sinh. Nó sẽ phải đi khập khiễng trong suốt quãng đời còn lại của mình.

Cô gái phấn khích nói: "Cháu muốn con chó đó!"

Người chủ trả lời: “Cháu sẽ không muốn mua con chó đó đâu. Nếu cháu thực sự muốn nó, cháu có thể có nó miễn phí. ”

Cô gái trở nên khó chịu. Cô ấy nhìn người chủ và nói: “Cháu không muốn có nó miễn phí. Con chó đó cũng đáng giá như những con khác. Cháu sẽ đưa cho ông số tiền lẻ mà cháu có hiện tại và một đô la mỗi tháng cho đến khi cháu trả hết số tiền mua con chó đó. ”

Người chủ tiếp tục: "Con chó này sẽ không bao giờ có thể chạy chơi như những con chó khác, ông nghĩ cháu sẽ hối hận về quyết định này."

Trước sự ngạc nhiên của người chủ, cô gái với tay xuống và xắn ống quần lên để lộ ra một chiếc chân bị tật được nâng đỡ bởi một chiếc nẹp kim loại lớn. Cô ấy nhìn lên người chủ và nhẹ nhàng trả lời, "Chà, cháu cũng không phải là người có thể chạy nhiều đâu, và con chó con này cần một người có thể hiểu nó."

Tạo ra sự khác biệt


Tôi thường chạy bộ quanh công viên gần nhà mỗi sáng chú nhật. Ở một góc của công viên có một cái hồ nhỏ. Mỗi lần chạy bộ bên bờ hồ này, tôi lại nhìn thấy một người phụ nữ lớn tuổi đang ngồi ở mép nước với một chiếc lồng kim loại nhỏ đặt bên cạnh.

Chủ nhật vừa qua, vì tò mò, tôi ngừng chạy và đi đến chỗ bà ấy. Khi đến gần hơn, tôi nhận ra rằng chiếc lồng thực chất là một cái bẫy nhỏ. Có ba con rùa, khỏe mạnh, đang chậm rãi bò trong lồng. Con rùa thứ tư đang nằm trong lòng bà và đang được cọ rửa mai cẩn thận bằng bọt biển.

“Xin chào!” tôi nói. “Tôi thường thấy bà ở đây vào mỗi sáng Chủ nhật. Nếu bà không phiền, tôi rất muốn biết bà đang làm gì với những con rùa này? "

“Tôi đang làm sạch mai của chúng.” bà mỉm cười trả lời. “Bất cứ thứ gì dính trên mai rùa, chẳng hạn như tảo hoặc rác, đều làm giảm khả năng hấp thụ nhiệt và cản trở khả năng bơi của nó. Mai rùa cũng có thể bị ăn mòn và yếu đi theo thời gian ”.

"Ồ! Bà thật tốt bụng ” Tôi thốt lên.

Bà ấy tiếp tục: “Tôi dành vài giờ mỗi sáng Chủ nhật, thư giãn bên hồ nước và giúp đỡ những sinh vật bé nhỏ này. Đó là cách tôi tạo ra sự khác biệt. "

"Nhưng không phải hầu hết các loài rùa đều phải sống cả đời với tảo và cặn bã bám trên mai sao?" Tôi hỏi.

“Đúng vậy, đáng buồn thay, thực tế là như vậy” bà ấy trả lời.

Tôi vò đầu. “Vậy thì, bà không nghĩ rằng bà đang lãng phí thời gian sao? Ý tôi là, nỗ lực của bà là tốt và rất đáng trân trọng, nhưng có hàng triệu con rùa nước ngọt sống trong các ao hồ trên khắp thế giới. Và 99% những con rùa này không được những người tốt bụng như bà giúp chúng làm sạch mai. Vì vậy, không có ý xúc phạm… nhưng chính xác thì những nỗ lực cá nhân của bà tại nơi này có thể tạo ra sự khác biệt như thế nào? ”

Người phụ nữ mỉm cười. Sau đó, bà ấy nhìn xuống con rùa trong lòng mình, chà sạch mảnh tảo cuối cùng khỏi mai của nó, và nói, “Chàng trai ạ, nếu sinh vật nhỏ bé này có thể nói chuyện, nó sẽ nói với cậu rằng, với nó, tôi là tất cả sự khác biệt.”

Câu chuyện về chiếc gương


Ở một công ty nọ có một vị giám đốc điều hành rất nghiêm khắc và thường kỷ luật nhân viên vì những sai phạm của họ. Một ngày nọ, khi các nhân viên đi làm, họ nhìn thấy một tấm biển treo trên cửa với nội dung: “Hôm qua, người kìm hãm thành công của các bạn trong công ty đã qua đời. Xin hãy tập trung để làm lễ tang trong phòng họp ”.

Các nhân viên cảm thấy rất buồn cho gia đình CEO của họ, nhưng đồng thời họ cũng bị hấp dẫn bởi viễn cảnh có thể thăng tiến trong công ty và trở nên thành công hơn.

Đến khi bước vào phòng họp, các nhân viên đã rất ngạc nhiên khi thấy vị CEO mà họ nghĩ đã mất cũng có mặt. Họ tự hỏi với nhau, “Nếu không phải ông ấy là người kìm hãm chúng ta thành công, thì đó là ai? Vậy ai vừa mất? ”

Lần lượt từng nhân viên đến gần quan tài, và khi nhìn vào bên trong, ai cũng tỏ ra khá ngạc nhiên. Họ không hiểu những gì họ nhìn thấy.

Bên trong quan tài, chỉ có một chiếc gương. Khi mỗi nhân viên đến xem ai đã “kìm hãm họ thành công”, mọi người đều nhìn thấy chính họ. Bên cạnh chiếc gương, có một tấm biển ghi:

Người duy nhất kìm hãm sự phát triển của bạn chính là bạn. Bạn là người duy nhất có thể ảnh hưởng đến thành công của mình. Cuộc đời bạn không thay đổi khi ông chủ thay đổi, khi bạn bè thay đổi, khi đồng nghiệp thay đổi, khi công ty thay đổi. Cuộc đời của bạn chỉ thay đổi khi bạn thay đổi, khi bạn vượt qua những niềm tin giới hạn của chính mình. Mối quan hệ có ảnh hưởng nhất mà bạn có thể có là mối quan hệ với chính mình. Bây giờ bạn đã biết ai là người kìm hãm bạn sống đúng với tiềm năng thực sự của mình. Vậy bạn có cho phép người đó tiếp tục giữ bạn lại?

Sự giàu có đích thực


Có một cậu bé lớn lên trong một gia đình rất giàu có. Một ngày nọ, cha cậu quyết định đưa cậu đi dã ngoại một chuyến để cho cậu thấy những người nghèo khổ sống như thế nào. Mục tiêu của cha cậu là giúp con trai mình trân trọng những thứ mà cậu đã được ban tặng trong cuộc sống.

Cha cậu đưa cậu đến một trang trại, nơi có một gia đình nghèo sinh sống. Cậu đã dành vài ngày sống trong trang trại của họ, phụ họ làm việc và chăm sóc trang trại.

Khi rời trang trại, bố cậu hỏi cậu có thích chuyến đi dã ngoại này không và cậu có học được gì trong thời gian ở với gia đình nọ không.

Cậu bé nhanh chóng trả lời: "Thật tuyệt, gia đình đó thật may mắn!"

Bối rối, cha cậu hỏi tại sao cậu lại nghĩ vậy.

Cậu bé nói: “Cha à, chúng ta chỉ có một con chó, nhưng họ có tới bốn con! Chúng ta có một hồ bơi, nhưng họ có cả một con sông dài vô tận. Chúng ta có những chiếc đèn lồng đắt tiền để soi sáng ban đêm, nhưng họ có cả bầu trời rộng mở và những vì sao tuyệt đẹp. Chúng ta chỉ có một mảnh đất nhỏ nhưng họ có những cánh đồng bất tận. Chúng ta có hàng rào cao bảo vệ, nhưng họ không cần, bởi vì bạn bè sẽ bảo vệ họ. "

Cha cậu im lặng không nói nên lời.

Cuối cùng, cậu bé nói thêm, "Cảm ơn cha đã cho con thấy chúng ta nghèo như thế nào"

Trọng lượng của cốc nước


Có lần, một vị giáo sư đi quanh lớp học với một cốc nước cầm trên cánh tay duỗi thẳng sang một bên. Ông hỏi các sinh viên của mình: "Ly nước này nặng bao nhiêu?"

Các sinh viên bắt đầu dự đoán trọng lượng của cốc nước.

Sau đó vị giáo sư trả lời: “Khi tôi đang cầm chiếc cốc này, trọng lượng của nó bao nhiêu không phải là điều quan trọng nhất. Nhưng việc tôi cầm nó trong bao lâu lại tạo ra sự ảnh hưởng lớn.

Chẳng hạn, nếu tôi cầm nó trong hai phút, tôi sẽ không cảm thấy có vấn đề gì. Nếu tôi cầm nó trong một giờ, trọng lượng của nó bắt đầu tác động đến tôi rõ ràng hơn khi các cơ của tôi bắt đầu mệt mỏi. Nếu tôi giữ nó cả ngày - hoặc cả tuần - cơ bắp của tôi sẽ bị chuột rút, tê liệt, khiến tôi cảm thấy đau đớn và không thể nghĩ về bất cứ điều gì ngoài cơn đau mà tôi đang gặp phải.

Trong tất cả những trường hợp trên, trọng lượng của cốc nước vẫn như cũ, nhưng càng cầm nó lâu, tôi càng cảm thấy nặng nề hơn và càng khó để giữ nó trên tay.

Vị giáo sư tiếp tục nói: “Ly nước này cũng như những lo lắng và phiền muộn mà các bạn mang theo hàng ngày. Nếu các bạn nghĩ về chúng trong vài phút rồi gạt chúng sang một bên, đó không phải là một gánh nặng quá lớn. Nhưng nếu bạn nghĩ về chúng lâu hơn một chút, các bạn sẽ bắt đầu cảm thấy căng thẳng. Nếu các bạn mang theo những phiền muộn cả ngày, các bạn sẽ trở nên mất năng lực, các bạn sẽ không thể làm bất cứ điều gì khác cho đến khi bạn để những phiền muộn ra đi ”.

Khoảnh khắc bình yên


Vào một buổi tối, sau khoảng thời gian bên nhau được vài ngày, người đàn ông cúi xuống và thì thầm vào tai người vợ mới cưới: "Anh yêu em."

Người vợ dịu dàng mỉm cười với anh và nói, "Khi em tám mươi tuổi, em sẽ nghĩ lại toàn bộ cuộc đời mình, em biết em sẽ nhớ mãi khoảnh khắc này."

Vài phút sau, người vợ chìm vào giấc ngủ. Trong căn phòng chỉ còn lại sự im lặng và tiếng thở nhẹ của vợ anh. Anh thức trắng, nghĩ về mọi thứ họ đã làm cùng nhau, từ buổi hẹn hò đầu tiên, kỳ nghỉ đầu tiên và cuối cùng là đám cưới trọng đại của họ. Đây chỉ là một số lựa chọn trong cuộc sống mà họ đã cùng nhau thực hiện, dẫn đến khoảnh khắc của ngày hôm nay.

Tại một thời điểm, anh nhận ra rằng họ đã làm gì hay đã đi đâu không quan trọng. Cũng không quan trọng họ sẽ đi đến những đâu.

Điều quan trọng duy nhất là sự bình yên thanh thản của chính khoảnh khắc này. Mỗi khoảnh khắc trong cuộc sống là một món quà và một điều kỳ diệu - bất kể nó nhỏ bé hay có vẻ tầm thường đến mức nào.

Chỉ cần ở bên nhau. Cùng thở. Và cùng nhau nghỉ ngơi.

Người thợ xây già


Một bác thợ già nói với ông chủ của mình rằng ông muốn về hưu để dành thời gian cho vợ con và gia đình. Ông nói rằng sẽ rất nhớ công việc của mình, nhưng ông ấy cảm thấy đã đến lúc dành thời gian cho những người thân thương của mình.

Ông chủ rất buồn khi biết tin này, vì người thợ già luôn là một nhân viên tận tụy cống hiến trong nhiều năm. Ông chủ đề nghị người thợ già hãy giúp cho ông một lần nữa, đó là xây cho ông thêm một ngôi nhà cuối cùng.

Mặc dù đam mê với công việc đã cạn, nhưng vì tình nghĩa, người thợ già cũng miễn cưỡng đồng ý.

Khi xây dựng ngôi nhà cuối cùng này, động lực và sự tận tâm với công việc của người thợ già đã không còn. Ông làm qua quýt, sử dụng các vật liệu rẻ tiền và kém chất lượng, cắt các góc ở bất cứ đâu có thể. Đó là cách tồi tệ nhất để kết thúc một sự nghiệp đầy cống hiến mà ông đã từng có.

Khi người thợ già hoàn thành công việc, ông chủ đến xem nhà. Ông chủ đưa chìa khóa cho người thợ già và nói: "Ngôi nhà này là món quà của tôi dành cho ông, vì tất cả những gì ông đã làm cho tôi tận tụy suốt bao nhiêu năm qua."

Người thợ già kinh ngạc.

Đó là món quà vô cùng hào phóng mà ông chủ dành cho ông. nhưng nếu ông biết rằng ông đang xây ngôi nhà cho chính mình, ông đã làm khác, nỗ lực để tạo ra một ngôi nhà hoàn hảo.

Bí quyết thành công


Một cậu bé hỏi nhà thông thái bí quyết thành công là gì. Sau khi nghe câu hỏi, nhà thông thái bảo cậu bé hãy gặp ông ở bờ sông vào buổi sáng và cậu sẽ có được câu trả lời.

Sáng hôm sau, nhà thông thái và cậu bé bắt đầu đi về phía bờ sông. Họ tiếp tục đi xuống sông, cho đến khi mực nước bắt đầu ngang miệng họ. Lúc này nhà thông thái thả cậu bé xuống nước.

Cậu bé cố gắng quay trở lại, nhưng nhà thông thái tiếp tục đẩy cậu bé đi xa hơn nữa. Càng lúc cậu bé càng cảm thấy khó trụ vững và không thể thở. Cuối cùng nhà thông thái cũng kéo cậu bé lên. Cậu bé hổn hển hít một hơi thật sâu.

Nhà thông thái hỏi: "Khi cậu bị chìm dưới nước cậu vùng vẫy dữ dội vì điều gì?" Cậu bé trả lời: "Cháu cần không khí để thở!" Người thông thái nói: "Bí quyết thành công là ở đó. Khi nào mong muốn đạt được thành công của cậu cũng mãnh liệt như lúc cậu cần không khí khi bị chìm dưới nước, cậu sẽ đạt được nó. Đó là bí quyết duy nhất."

Câu chuyện cười của nhà thông thái


Một lần nhà thông thái gặp một nhóm người luôn phàn nàn về những vấn đề giống nhau hết lần này đến lần khác. Một ngày nọ, thay vì lắng nghe những lời phàn nàn, ông kể cho họ nghe một câu chuyện cười và mọi người phá lên cười. Sau đó nhà thông thái tiếp tục kể lại câu chuyện cười đó. Một vài người mỉm cười.

Cuối cùng nhà thông thái kể lại câu chuyện lần thứ ba - nhưng không ai cười nữa.

Nhà thông thái mỉm cười và nói, "Các bạn không còn cảm thấy thú vị với cùng một câu chuyện được kể nhiều lần. Vậy các bạn nhận được gì từ việc liên tục phàn nàn về cùng một vấn đề?

Dây thừng buộc voi


Eduardo nhìn thấy một đoàn xiếc voi đi ngang qua. Anh ngạc nhiên khi thấy những sinh vật khổng lồ đó bị buộc vào nhau bởi một sợi dây thừng nhỏ vào chân trước. Không có dây xích, cũng chẳng có lồng. Rõ ràng là những con voi to lớn có thể dễ dàng phá đứt sợi dây bất cứ lúc nào. Nhưng vì lý do nào đó, chúng đã không làm thế.Anh nhìn thấy người thuần hóa voi và hỏi ông ấy tại sao những con vật này chỉ đứng đó và không cố gắng trốn thoát.

Người thuần hóa voi trả lời rằng khi những con voi còn rất nhỏ, chúng tôi đã sử dụng sợi dây thừng có cùng kích thước để buộc chúng lại và ở độ tuổi đó, sợi dây đủ để giữ chúng. Khi chúng lớn lên, chúng đã quen với ý nghĩ là không thể bứt được sợi dây. Vì vậy nó không bao giờ cố gắng bỏ trốn nữa.

Eduardo rất ngạc nhiên. Những con vật này bất cứ lúc nào cũng có thể chạy thoát nhưng vì chúng tin rằng chúng không thể, nên chúng mới bị cầm tù tại nơi này.

Đá, sỏi và cát


Một vị giáo sư triết học đứng trước lớp của mình với một lọ mayonnaise rỗng. Ông đổ đầy lọ với những hòn đá lớn và hỏi học sinh của mình xem chiếc lọ đã đầy chưa.

Tất cả học sinh đều nói rằng cái lọ đã đầy.

Sau đó, vị giáo sư lại cho những viên sỏi nhỏ vào lọ và lắc nhẹ. Những viên sỏi lăn vào những khoảng trống giữa các tảng đá. Sau đó ông hỏi lại, "Bây giờ cái lọ đã đầy chưa?"

Tất cả học sinh đồng ý rằng cái lọ đã đầy.

Sau đó, vị giáo sư lại đổ cát vào bình. Tất nhiên cát lấp đầy tất cả các chỗ trống còn lại.

Học sinh một lần nữa đồng ý rằng cái lọ vẫn đầy.

Sau đó, giáo sư lại lấy hai lon bia từ dưới gầm bàn lên và đổ toàn bộ bia vào lọ.

“Bây giờ,” giáo sư nói, “Tôi muốn bạn nhận ra rằng đây là cuộc sống của các bạn. Những hòn đá là những thứ quan trọng đối với bạn: gia đình, vợ chồng, sức khỏe, con cái... bất cứ thứ gì quan trọng đối với bạn đến nỗi nếu nó mất đi, bạn sẽ gần như tuyệt vọng.

Những viên sỏi là những thứ quan trọng khác trong cuộc sống, nhưng ở quy mô nhỏ hơn. Những viên sỏi đại diện cho những thứ như công việc, nhà cửa, xe cộ của các bạn.

Cát là tất cả các thứ còn lại. Những thứ nhỏ nhặt.

Nếu các bạn cho cát hoặc sỏi vào lọ trước, đá sẽ không còn chỗ. Cuộc sống của bạn cũng vậy. Nếu bạn dành toàn bộ sức lực và thời gian cho những thứ nhỏ nhặt, vật chất, bạn sẽ không bao giờ còn chỗ cho những thứ thực sự quan trọng nhất. Hãy chú ý đến những điều quan trọng trong cuộc sống của bạn. Chơi với con cái của bạn. Đưa vợ/chồng của bạn ra ngoài khiêu vũ. Sẽ luôn có thời gian để đi làm, dọn dẹp nhà cửa, tổ chức tiệc tùng và sửa chữa đồ phế thải. Hãy chăm sóc những tảng đá trước - những thứ thực sự quan trọng. Đặt ưu tiên của bạn: phần còn lại chỉ là đá cuội và cát.

Một trong những học sinh giơ tay và hỏi xem bia tượng trưng cho điều gì.

Vị giáo sư mỉm cười. “Tôi rất vui vì bạn đã hỏi. Bất kể cuộc sống của bạn đầy đủ như thế nào, vẫn luôn có chỗ cho một vài ly bia. "

Vàng cách ba bước chân


Trong cơn sốt vàng ở Colorado, một người đàn ông khai thác mỏ được vài tháng đã bỏ cuộc vì anh ta đào mãi vẫn không tìm thấy vàng, công việc đang trở nên mệt mỏi và bế tắc. Anh ta đã bán mỏ của mình cho một người đàn ông khác. Người này tiếp tục khai thác mỏ ở nơi nó đã bị bỏ dở. Người thợ mỏ mới được kỹ sư mách rằng vàng chỉ cách nơi người thợ mỏ đầu tiên ngừng đào ba bước chân. Kỹ sư đã đúng, người thợ mỏ đầu tiên chỉ còn cách ba bước chân để tìm thấy vàng nhưng anh ta đã bỏ cuộc.

Những giấc mơ của mẹ


Trong giấc mơ, cô mười bốn tuổi, chạy về nhà trên đôi giầy cao gót nhỏ bấp bênh trên con đường lát đá. Mẹ cô tụt lại phía sau khoảng sáu bước, theo sau những dấu chân cô, luôn nhắc cô phải bước đi thật cẩn thận. Từ đâu đó, một tên lửa V2 phóng đi, gầm rú từ trên cao. Cô bắt đầu đếm và chờ trong im lặng đợi tên lửa tìm đến đúng vị trí đánh dấu của nó.

"Một," Cô hét lên "hai, ba, bốn"

"Chúng ta có rất nhiều thời gian, Lizzy à, rất nhiều thời gian." Mẹ cô nói to, lặp đi lặp lại, không hề hoảng sợ, cố trấn an cô.

Đó là một giấc mơ giống như mọi khi, Lizzy tiến đến phía sau và nắm lấy tay người phụ nữ lớn tuổi, kéo bà ấy vào mái hiên nhà cô, rồi nhìn ngôi nhà bên kia đường nổ tung thành đống gạch vụn cháy rực.

***

Mẹ của tôi, Lizzy, giờ đây đã chín mươi bảy tuổi. Tôi luôn nghĩ mẹ là người sống sót, với cuộc đời và với thời gian. Cách đây không lâu mẹ còn có mẹ, có chồng, có chị và hai người con gái. Giờ mẹ chỉ còn có mình tôi.

Hai lần mỗi tuần, tôi đến thăm mẹ, mở cửa và nhìn sang trái, nhìn xuyên bóng tối của rèm che để nhìn vào phòng của mẹ. Tôi thấy mẹ vẫn đang ngủ. Dưới lớp chăn, cơ thể mẹ ngày càng gầy gò và yếu đi. Những người được tôi thuê để chăm sóc cho mẹ thường đùa rằng mẹ tôi chỉ hít không khí ở mỗi bữa ăn. Họ nói mẹ vẫn rất "bướng", nhưng theo một cách dễ thương. Mẹ đã vượt qua những cơn cáu kỉnh, khó chịu của tuổi già, bằng sự khiêm nhường nhẹ nhàng của một tâm trí đang dần mất đi theo theo thời gian.

Tôi cũng không có nhiều thời gian để thăm mẹ thường xuyên hơn, hoặc cũng có thể vì cuộc sống cứ thế trôi đi, xây dựng cuộc sống riêng tư với tôi quan trọng hơn, thú vị hơn.

"Mẹ rất biết ơn con đã chăm sóc mẹ, mẹ rất vui" Mẹ tôi lặp lại. Tôi nhận lòng biết ơn của mẹ, dù với cảm giác áy náy đan xen, nó đập vào não tôi những đêm không ngủ.

***

Trong giấc mơ của mình, cô ấy mười tám tuổi, với mái tóc uốn vàng và đôi lông mày cong vút như một ngôi sao điện ảnh. Chồng của cô, George, tình yêu của cuộc đời cô, là lính thời chiến, và cô luôn sợ anh ấy sẽ không bao giờ trở về nhà. Anh ấy thỉnh thoảng viết thư, dù rằng không có hộp thư nào ở Thái Bình Dương. Và nhà của họ là điều cuối cùng anh ấy nghĩ đến khi lái máy bay tự sát rơi xuống bốc cháy trên bầu trời... Những thi thể cháy đen nằm cạnh anh thành hàng trên boong đầy khói thuốc... Cô tỉnh dậy, khóc nức nở và sợ hãi, rồi cô nhìn lên bức ảnh cưới đặt trên đầu giường của mình. Trấn tĩnh, cô nhớ về những năm tháng tận tụy với anh, nhớ lại họ đã từng có rất nhiều thời gian bên nhau, và đã từng khao khát nhiều hơn thế.

***

Tôi cố gắng đánh thức mẹ nhưng mẹ vẫn đang ngủ say. Tôi biết cuộc trò chuyện sắp tới khi mẹ tôi thức dậy sẽ diễn ra như thế nào. Tôi sẽ hỏi mẹ đã ăn gì chưa và mẹ trả lời là mẹ không đói. Tôi sẽ cố gắng vỗ về mẹ dưới ánh nắng ấm áp, ép mẹ uống trà và trò chuyện. Và mẹ sẽ từ chối. Mẹ nói với tôi rằng mẹ hạnh phúc khi được cuộn tròn trên chiếc giường ấm áp của mình, và rằng mẹ mệt mỏi. Cuối cùng mẹ nói với tôi rằng đó là điều bình thường của người đã chín mươi bảy tuổi. Đó là sự thật, tôi không thể nào phản bác được, nên tôi để mẹ ngủ yên.

***

Trong giấc mơ, cô ấy hai mươi bốn tuổi, đang mang thai và sắp sinh, cơn đau ập đến nhanh chóng và không thể chịu đựng được. Bệnh viện cử đến một nữ hộ sinh kinh nghiệm, váy màu xanh, cà vạt và áo khoác dạ màu đen, trên đầu đội chiếc mũ màu trắng của y tá. Cô phải sinh tại nhà, bị trục xuất khỏi bệnh viện vì mắc bệnh thủy đậu cấp tính. Cô ấy bị nhiễm trùng nhưng đứa bé không quan tâm. Cô đã sẳn sàng để trở thành mẹ.

"Cô ấy có nên rặn mạnh hơn nữa không?" George hỏi.

"Không, chúng ta còn rất nhiều thời gian!" Nữ hộ sinh trả lời. Đó là một sự an ủi dối trá.

Và cuối cùng thì đầu em bé cũng chui ra, nhưng khuôn mặt của người nữ hộ sinh nói lên một sự thật nghiệt ngã khi lần lượt hết khăn này đến khăn khác thấm màu đỏ, còn Lizzy thì bắt đầu lịm đi.

Cô ôm đứa bé đang trằn trọc, nhờn rít vào vú mình, và thức giấc với tiếng còi xe cấp cứu vẫn còn réo rắt trong tâm trí cô.

***

Tôi đã nghĩ ra một kế hoạch. Tôi sẽ gọi cho mẹ vào một thời điểm ngẫu nhiên và sẽ đưa mẹ đến địa điểm yêu thích của mẹ gần bãi biển. Tôi sẽ lấy ra cho mẹ một chiếc ghế, một tấm thảm và một chiếc gối, và mẹ sẽ ngồi như một nữ hoàng thời xưa, chỉ huy những đám mây băng qua ánh nắng mùa thu mát mẻ. Cây cối sẽ tỏa bóng mát cho chúng tôi trong buổi chiều tà, còn chúng tôi sẽ ngồi nhấm nháp những tách trà từ những chiếc cốc sành sứ được vận chuyển cẩn thận với những chiếc đĩa phù hợp và thìa bạc. Chuyến dã ngoại của chúng tôi sẽ được kết thúc với bánh trái và một cuộc dạo chơi nhỏ, tinh tế dọc theo bãi cát.

Tôi gõ cửa như thường lệ, nghĩ cách đối phó với sự từ chối ra khỏi giường của mẹ. Kế hoạch này cần có cả tôi và người chăm sóc, để có thể đưa mẹ tôi đứng dậy và rời khỏi giường. Mẹ tôi mở cửa trong bộ đồ ngủ bằng vải nỉ sọc hồng, tóc búi lệch, lơ đễnh nhìn tôi và im lặng hỏi một câu " Cô là ai?" Mẹ tôi đứng trên đôi chân không còn vững, mỗi bước đi đều có nguy cơ té ngã, nhưng bà vẫn đứng vững, từ chối lời đề nghị của tôi, trở về phòng và leo trở lại giường.

“Không,” mẹ tôi nói, “Tôi muốn ngủ.”

Tôi là con gái của mẹ và tôi biết giọng điệu đó. Tôi để bà ấy ngủ và mọi kế hoạch của tôi sụp đổ. Khi tôi rời đi, hy vọng mờ mịt về một chuyến dã ngoại trong tương lai của chúng tôi vang lên với những tiếng cười chế giễu.

***

Trong giấc mơ, cô ấy chín mươi ba tuổi. Mọi người ngồi xung quanh cô ấy, khuôn mặt những người cô ấy biết đang mờ đi nhanh chóng. Họ lặng lẽ và đau buồn, nói với cô rằng con gái lớn của cô, Jane, mắc bệnh ung thư. Lizzy phát ra một tiếng rên khẽ, đau đớn, vô vọng, bi thương. Cha mẹ phải để tang con, đó có lẽ là sự nghiệt ngã cuối cùng của cuộc đời cô.

Sau đó, trong giấc mơ, các vai diễn bị đảo ngược, cô con gái đang hấp hối ôm lấy mẹ trấn an, giúp bà bình tĩnh lại, nói với mẹ rằng mọi chuyện sẽ ổn thôi.

"Chúng ta còn rất nhiều thời gian mà mẹ." Jane nói.

***

Tôi cố gắng tổ chức một bữa ăn trưa cho mẹ nhưng một lần nữa tôi lại thất bại. Khuyên bảo mẹ là điều vô nghĩa. Cứ để cho mẹ như vậy. Mẹ hạnh phúc trong ngôi nhà của mình, trên chiếc giường của mình, bất kể tôi muốn gì, bất kể những gì tôi nghĩ là tốt cho mẹ tôi.

Hôm nay tôi sẽ chỉ ngồi bên cạnh giường của mẹ, nắm tay bà ấy và cho mẹ ngủ. Và nếu mẹ thức dậy, tôi sẽ pha một tách trà và kể cho mẹ nghe về thế giới bên ngoài, và rằng tôi yêu mẹ biết bao. Cho đến khi mẹ đi vào giấc ngủ trở lại.

Và vì vậy tôi đang ở đây để nhớ về người mẹ đã tạo ra chúng tôi; con, cháu và chắt. Mẹ đã già yếu, với mái tóc trắng bù xù và làn da mỏng như giấy. Người phụ nữ ấy vẫn ở đó, bên dưới lớp vỏ bấp bênh nhất của cuộc đời, và chỉ cần được ở bên mẹ đã là một kỷ niệm.

***

Trong giấc mơ của mình, cô ấy đã chín mươi bảy tuổi và người con gái còn lại đến thăm mỗi ngày. Họ cười nói vui vẻ và nói về thời tiết, về những đứa trẻ, và những điều nhỏ nhặt của cuộc sống bình thường. Con gái cô ấy bận, nhưng vẫn ở lại lâu hơn một chút, cho đến khi cô ấy chú ý đến thời gian và bảo con gái nên về.

"Chúng ta còn rất nhiều thời gian mà." Cô ấy nói.

"Đúng." Tôi mỉm cười, "còn rất nhiều."



Truyện sưu tầm


Những mẫu truyện hay được khotangvanhoc.com sưu tầm từ nhiều nguồn trên internet

Tình thương không lời


Cha tôi dường như không biết thể hiện tình yêu thương của mình. Cả gia đình tôi sống vui vẻ và thoải mái, tất cả cũng là nhờ mẹ tôi. Hàng ngày cha cứ sáng sớm đi làm, chiều tối về nhà. Thế nhưng sau khi nghe mẹ tôi kể về những tội mà chúng tôi phạm phải trong ngày thì cha lại không ngớt lời rầy la chúng tôi.
Có lần tôi ăn trộm một cây kẹo ở cửa tiệm nhỏ đầu phố. Cha biết chuyện và nhất định bắt tôi đem trả. Không những thế cha còn bắt tôi đến quét dọn cửa tiệm để chuộc lại lỗi lầm. Lần ấy duy chỉ có mẹ hiểu bởi dù sao tôi cũng chỉ là đứa trẻ mà thôi.

Tôi chơi bóng sơ ý bị gãy chân. Trên đường đến bệnh viện, người ôm tôi vào lòng là mẹ. Cha dừng xe hơi của ông trước cửa phòng cấp cứu, nhưng người bảo vệ yêu cầu ông đậu xe nơi khác vì chỗ đó chỉ dành cho những xe cấp cứu đỗ mà thôi. Cha nghe xong liền nổi giận: "Thế ông tưởng xe của chúng tôi là xe gì? Xe du lịch chắc?" .

Trong những buổi tiệc mừng sinh nhật của tôi, cha chẳng giống một người cha chung vui với tôi chút nào. Cha chỉ mải lo thổi bong bóng, bày bàn tiệc hoặc làm những việc phục vụ vặt vãnh. Vẫn là mẹ cắm nến lên bánh kem và đưa đến cho tôi thổi.

Xem những album ảnh, bạn bè thường hỏi: "Cha bạn ở đâu vậy?". Chỉ có trời mới hiểu nổi, vì lúc nào cha cũng là người cầm máy chụp hình. Còn mẹ và tôi thì luôn cười tươi như hoa và ảnh chụp dĩ nhiên là vô số.

Tôi còn nhớ có lần mẹ nhờ cha dạy cho tôi tập đi xe đạp. Tôi xin cha khoan hãy buông tay ra, nhưng cha nói đã đến lúc cha không nên vịn xe cho tôi nữa. Và thế là cha buông tay. Tôi té xuống đất, mẹ vội chạy lại đỡ tôi dậy, còn cha thì khoát tay ra hiệu mẹ tránh ra. Lúc đó tôi rất giận, và nhất định phải chứng tỏ cho cha thấy tôi cũng không cần sự giúp đỡ. Nghĩ vậy tôi lập tức gắng leo lại lên xe và chạy một mình cho cha xem. Lúc ấy cha chỉ đứng yên và nở một nụ cười.

Tôi vào đại học, tất cả thư từ đều do mẹ viết cho tôi. Cha chỉ gửi tiền ăn học và duy nhất một bức thư ngắn trong vòng bốn năm trời, nội dung chỉ vẻn vẹn vài dòng về chuyện tôi rời khỏi nhà đi học xa nên chẳng còn ai đá bóng trên thảm cỏ trước nhà nữa khiến thảm cỏ của cha ngày một tươi tốt.

Mỗi lần tôi gọi điện về nhà, cha dường như đều rất muốn trò chuyện với tôi nhưng cuối cùng ông lại nói: "Cha gọi mẹ lại nghe điện nhé!" .

Thế rồi tôi cũng kết hôn, lại vẫn là mẹ khóc. Cha chỉ sụt sịt mũi vài cái rồi bước ngay ra khỏi phòng.

Từ bé đến lớn, cha chỉ thường nói với tôi những điều như: Con đi đâu đấy? , Mấy giờ về? , Xe còn đủ xăng không? , Không, không được đi...

Cha hoàn toàn không biết thể hiện tình yêu thương của mình. Trừ phi...Trừ phi... Phải chăng cha đã thể hiện rất nhiều nhưng tôi lại vô tình không cảm nhận được tình thương yêu bao la đó?

Con lật đật


Ngày tôi mới chập chững bước đi, chuyện vấp té là một điều không thể tránh khỏi. Mỗi lần vấp té, tôi vẫn thường nằm lì trên sàn nhà, chờ mẹ tới dỗ dành hoặc cho quà mới chịu ngồi dậy.

Có một lần tôi bị té khá đau, mẹ dỗ mãi vẫn không nín khóc được. Lần này không phải tôi cố tình làm nũng mà thực sự là tôi rất đau. Mẹ bỗng đứng lên, mở cái tủ nhỏ xíu vẫn hay đựng những thứ linh tinh của mẹ. Rồi mẹ đem đến trước mặt tôi một con lật đật.

Mẹ đặt con lật đật xuống đất, đẩy cho nó ngã lăn ra rồi nói với tôi:

- Con hãy nhìn kìa, lật đật tuy nhỏ hơn con nhưng mỗi lần bị xô ngã, nó vẫn tự đứng dậy được. Nhìn xem con gái yêu của mẹ!

Tôi nhìn con lật đật. Ðúng là khi bị xô ngã, lật đật bật dậy ngay. Tôi thích thú trước trò chơi mới và quên cả cái đau. Mẹ nhìn tôi cười dịu dàng và nói:

- Con thấy không, dù thế nào đi nữa, lật đật cũng tự đứng dậy được. Lật đật rất ngoan và mẹ tin con gái của mẹ cũng ngoan như thế.

Tôi đã nín khóc và cứ tròn xoe mắt nhìn con lật đật cứ lắc lư nhưng không bao giờ bị té. Ngày ấy tôi đã cố gắng giống như lật đật. Mỗi lần vấp té, tôi đều cố gắng bật dậy ngay. Mẹ vẫn hay gọi tôi là "Cô bé lật đật đáng yêu của mẹ".

Bây giờ bên cạnh tôi không có mẹ. Tôi đã trưởng thành và phải tự mình lo liệu hết mọi thứ. Cuộc sống không phải lúc nào cũng như ý muốn. Ðôi lúc mệt mỏi, chán chuờng, tôi muốn buông xuôi tất cả. Nhưng hình ảnh con lật đật và những lời động viên của mẹ cứ hiện về trong tôi. Và tôi lại tiếp tục bật dậy. Không gì có thể đánh gục tôi được. Bởi tôi đã quyết tâm làm một con lật đật...

Kiểm tra sự tự tin


Đó là một bài kiểm tra kỳ lạ nhất từ khi tôi đi học. Hôm đó, thầy giáo vào lớp và phát cho mỗi người chúng tôi một bài kiểm tra toán. Bài kiểm tra được chia làm đề riêng lẻ, có ghi chú rất rõ ràng ngay từ đầu: loại một gồm những câu hỏi vừa dễ, vừa khó, nếu làm hết sẽ được 10 điểm. Loại 2 là đề bài ở mức trung bình, làm hết sẽ được 8 điểm. Loại 3 có tổng điểm là 6 với những câu hỏi rất dễ. Học sinh có quyền lựa chọn làm một trong ba đề đó. Vì thời gian khá gấp gáp, lại e ngại không làm được bài khó nên phần lớn, chúng tôi đều cắm đầu vào làm ngay loại đề số 3 hoặc số 2 cho ăn chắc.

Một tuần sau khi thầy giáo trả bài kiểm tra, chúng tôi còn ngạc nhiên hơn lúc nhận được đề bài vì thầy không hề chấm, cứ ai làm dề nào thì thầy cho đúng tổng điểm của đề đó, bất kể sai hay đúng. Quá ngạc nhiên, chúng tôi đã hỏi thầy, các bạn có biết câu trả lời của thầy là gì không?

Thầy đã nói với chúng tôi rằng đó không phải là bài kiểm tra kiến thức mà là bài kiểm tra sự tự tin. Thầy nói ai trong chúng tôi cũng muốn đạt điểm 10 nhưng ít ai dám vượt qua thử thách để biến ước mơ đó thành sự thật. Chúng tôi biết nếu làm đề 10 điểm, chúng tôi sẽ phải làm thêm những câu hỏi khó nên đã bỏ cuộc ngay từ đầu mà không hề ngó qua để nhận thấy rằng số câu rất dễ trong đề này cũng vừa tròn với tổng số điểm là 6

Có những việc nhìn bề ngoài thì tưởng chừng như là khó nên chúng ta thường rút lui ngay từ phút đầu tiên mà không hề cân nhắc. Nhưng đôi khi chúng ta cũng nên mạo hiểm một lần vì nếu không vượt chướng ngại vật thì làm sao biết khả năng của mình đến đâu, và làm sao về đích như ước mơ của mình.

Nếu uớc mơ đủ lớn


Tôi vẫn thường nhìn cô bé đó từ cửa sổ nhà bếp và bật cười. Cô bé trông thật bé nhỏ khi chen chúc giữa một đám con trai trên sân chơi. Trường học nằm đối diện với nhà chúng tôi và tôi thường đứng ở bên cửa sổ, tay bận làm việc nhưng mắt vẫn nhìn đám trẻ đang vui chơi trong giờ giải lao. Một biển học trò, nhưng đối với tôi, cô bé vẫn có thể nhận ra được trong đám trẻ đó.

Tôi vẫn nhớ bữa đầu tiên tôi thấy cô bé chơi bóng rổ. Thật tuyệt vời khi cô bé chạy vòng quanh các đứa trẻ khác, nhảy lên ném bóng vào trong rổ ngay trên đầu của chúng. Những đứa con trai luôn cố cản cô bé nhưng không đứa nào làm được cả.

Tôi cũng chú ý đến cô bé vào những lần khác, cũng tại chỗ đó, với banh trong tay đang chơi một mình. Cô có thể tập đi tập lại dắt bóng và ném bóng cho đến khi trời tối mịt. Một ngày kia, tôi hỏi cô bé tại sao cô tập luyện nhiều như vậy. Xoay nhanh người, mái tóc đuôi gà nhún nhảy, cô bé nhìn thẳng vào mắt tôi. Không một chút do dự, cô bé nói, "Cháu muốn vào học Đại học. Cha cháu đã không thể vào Đại học được nên ngay từ khi cháu còn bé, cha đã thường nói là muốn sau này cháu phải học đại học… Cách duy nhất cháu có thể vào học được là phải có một học bổng. Cháu thích bóng rổ. Cháu nghĩ rằng nếu cháu chơi bóng giỏi thì cháu sẽ nhận được học bổng vào Đại học. Cháu sẽ chơi bóng rổ cho trường Đại học. Cháu muốn thành xịn nhất. Cha cháu nói với cháu rằng nếu ước mơ thật sự lớn, những chuyện khác chỉ là chuyện nhỏ." Sau đó cô bé cười và chạy đi tập tiếp.

Vậy đó, tôi cũng chào thua cô bé - cô bé đã tự định đoạt số mệnh của mình. Tôi đã theo dõi cô bé suốt những năm đầu của Trung học. Mỗi tuần, cô bé dẫn dắt đội bóng của mình chiến thắng. Thật làthích thú khi xem cô bé chơi.

Vào một ngày trong năm cuối cùng bậc Trung học, tôi thấy cô bé ngồi trên bãi cỏ, đầu giấu vào trong cánh tay. Tôi bước qua đường và ngồi xuống bãi cỏ cạnh cô bé. Tôi hỏi nhỏ chuyện gì đã xảy ra với cô vậy. "O,À không có gì," câu trả lời thật khẽ. "Cháu quá thấp." Huấn luyện viên nói với cô bé là với chiều cao thấp như vậy côù sẽ chẳng bao giờ chơi cho một đội hạng nhất được - chưa nói đến học bổng - bởi vậy cô nên bỏ ước mơ vào đại học đi.

Cô bé thật đau khổ. Tôi cảm thấy lòng mình thắt lại khi nhận thấy sự thất vọng của cô bé. Tôi hỏi xem cô đã nói cho cha cô biết chưa. Cô bé nhấc đầu lên khỏi cánh tay và kể rằng cha cô nói tất cả các huấn luyện viên đều sai bét cả. Họ không hiểu được sức mạnh của ước mơ. Ông nói với cô bé rằng nếu cô muốn chơi cho một trường Đại học tốt, nếu cô thật sự muốn có học bổng, thì không có gì có thể ngăn cản cô được ngoại trừ một điều - thái độ của chính mình. Ông nói với cô một lần nữa, "Nếu ước mơ đủ lớn thì tất cả những điều khác chỉ là chuyện nhỏ."

Năm kế tiếp, khi cô và đội của cô chơi cho giải vô địch Bắc California, cô đã được một huấn luyện viên chú ý đến. Cô được mời vào trường, với học bổng, để đến với một đội bóng rổ nữ trong giải hạng nhất của NCAA. Cô bé ấy được nhận vào học. Cô đạt được việc học đại học mà cô hằng mơ ước và cố gắng phấn đấu từ nhiều năm qua. Và cô bé đã được tham gia thi đấu nhiều nhất trong lịch sử nhà trường.
Vào một đêm nọ, cha cô gọi cô. "Cha đang bị bệnh, cưng ạ. Cha bị ung thư. Không, con đừng nghỉ học và cũng không cần trở về nhà. Mọi việc sẽ tốt thôi con. Cha yêu con lắm."

Sáu tuần sau người cha - thần tượng của cô bé – đã qua đời. Trước đó, cô bé nghỉ học vài ngày để về an ủi mẹ và chăm sóc cha. Một đêm kia, trước khi qua đời, cha cô gọi cô đến bên giường. Khi cô đến gần, người cha nắm lấy tay cô và gắng sức nói "Rachel, con cứ tiếp tục ước mơ đi. Đừng để ước mơ của con chết theo cha. Hứa với cha đi." ông nài nỉ. "Hứa đi con." Trong những giây phút hiếm hoi còn được ở bên cạnh nhau đó cô bé trả lời "Dạ con xin hứa với cha."

Những năm sau đó thật là nặng nề với cô bé. Cô phải luân phiên giữa trường và ở nhà, nơi mẹ cô ở một mình với đứa trẻ mới sinh ra và ba đứa con khác. Sự đau đớn mất cha mà cô cảm nhận được vẫn còn đó, giấu kín trong lòng cô, vẫn chờ đến một lúc nào không ngờ tới được bùng nổ lên để đánh quỵ cô.
Mọi thứ dường như càng ngày càng khó khăn hơn. Cô phải chống chọi với sợ hãi, nghi ngờ và vỡ mộng. Khó khăn đã làm cho cô phải học mất 3 năm mới đủ chứng chỉ cho một năm. Những giáo viên trong trường không tin nổi rằng cô vượt qua được dù chỉ một học kỳ. Mỗi khi muốn bỏ cuộc, cô lại nhớ những lời cha cô "Rachel, hãy tiếp tục ước mơ. Đừng để ước mơ của con chết theo cha. Nếu ước mơ của con đủ lớn, con có thể làm mọi việc. Cha tin ở con." Và dĩ nhiên, cô luôn nhớ đến lời hứa của mình với cha.Cô bé đã thực hiện được lời hứa và hoàn tất chương trình đại học. Cô phải mất đến 6 năm, nhưng cô không bỏ cuộc. Cô vẫn tiếp tục chơi bóng rổ vào những lúc chiều xuống. Và nhiều lần tôi nghe cô nói với bạn bè: 

"Nếu ước mơ đủ lớn, những điều còn lại là chuyện nhỏ.”

Hạnh phúc


Trong một căn phòng ở bệnh viện có hai người đàn ông lớn tuổi đang bị bệnh rất nặng. Một trong số hai người được phép ngồi dậy một giờ mỗi buổi chiều. Trong phòng chỉ có mỗi một cửa sổ nhìn ra bên ngoài lại nằm cạnh giường người đàn ông này. Người thứ hai bị buộc phải nằm bất động trên giường mà không được đi lại hay ngồi dậy. Hai người đàn ông nói chuyện với nhau rất nhiều. Họ kể cho nhau nghe về vợ con, gia đình, công việc, về cuộc sống của họ trong quân ngũ và cả về nơi họ đã đi nghỉ mát.

Vào mỗi buổi chiều khi người đàn ông có giường bên cạnh cửa sổ ngồi dậy, ông ta kể cho người bạn cùng phòng của mình nghe về những điều ông thấy bên ngoài cánh cửa. Người thứ hai dần dần chỉ sống bằng những khoảng một tiếng, khi mà cuộc sống buồn chán của ông được làm tươi sáng và sinh động hơn bởi những hoạt động và màu sắc từ thế giới bên ngoài cửa sổ. Khung cửa nhìn ra một công viên với một hồ nước rất đẹp. Vịt trời và thiên nga bơi lội trên mặt nước trong khi những đứa trẻ thả những con thuyền nhỏ của chúng bên bờ hồ. Những cặp tình nhân đi dạo tay trong tay giữa rừng hoa muôn màu.

Người đàn ông bên cửa sổ mô tả những cảnh này chi tiết đến mức người thứ hai có thể nhắm mắt lại và tưởng tượng ra toàn bộ khung cảnh. Có ngày người ngồi bên cửa sổ kể về một cuộc diễu hành đi ngang qua. Dù lúc đó người thứ hai không nghe thấy tiếng nhạc, ông ta vẫn có thể tưởng tượng được qua những mô tả của người thứ nhất. Ngày lại ngày trôi qua như vậy.

Một buổi sáng, khi y tá đến thăm, người đàn ông bên cửa sổ đã qua đời trong đêm. Ai cũng rất đau buồn vì chuyện này. Sau khi mọi việc đã qua, người thứ hai hỏi xin được chuyển đến bên cửa sổ. Cô y tá chuyển người này và sau đó rời khỏi phòng.

Chậm rãi và đau đớn, người đàn ông cố nhấc mình lên để nhìn ra ngoài cửa sổ lần đầu tiên. Cuối cùng, ông cũng có thể tự mình nhìn ra ngoài. Ông cố gắng xoay người nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài là một bức tường rất cao che hết tầm nhìn. Người đàn ông vô cùng ngạc nhiên. Ông hỏi cô y tá tại sao mà người bạn cùng phòng vừa mới qua đời có thể kể về những điều kỳ diệu như vậy, hệt như ông ta đang nhìn thấy thật. Cô y tá suy nghĩ một chút rồi trả lời. "Có lẽ ông ta muốn khích lệ ông đó," cô y tá nói.

Hạnh phúc thay khi có thể làm cho người khác hạnh phúc, bất kể chúng ta đang ở trong tình cảnh nào. Chia buồn làm giảm nỗi đau, nhưng chung vui lại làm tăng niềm hạnh phúc. Nếu bạn muốn cảm thấy mình giàu có, hãy tính tất cả những điều bạn đang có mà tiền bạc không thể mua được.

Hạnh phúc ở dưới chân


Trên thảo nguyên bát ngát, Cây và Cỏ luôn ở bên nhau, đồng hành và thân thiết. Ngọn cỏ non đẹp dịu dàng như một nàng thiếu nữ đang uốn mình mềm mại với chiếc áo dài tha thướt xanh màu ngọc biếc, giản đơn và quyến rũ…

Cây cao lớn, sừng sững tựa một chàng trai lực lưỡng đang vươn những cánh tay dài chắc chắn, trải rộng tán lá khỏe mạnh ra xung quanh như bao bọc, chở che, như ôm lấy Cỏ vào lòng. Đầm ấm…

Cuộc sống cứ thế lặng lẽ trôi. Đến một ngày trời xanh hửng nắng, gió mát vi vu thổi, những áng mây trắng trôi bồng bềnh, phiêu lãng ở trên cao. Cây mơ màng, đưa mắt ngước nhìn lên phía những vì sao và nghĩ: “Đẹp quá, nơi đó phải chăng là thiên đàng?”. Cây quyết định sẽ đi đến đó, quyết định rời bỏ ngọn Cỏ, vươn cao mình lên phía những vì sao.

“Anh đi đâu vậy ?” - Cỏ cất tiếng hỏi khẽ.

“Tôi đi tìm những vì sao hạnh phúc” - Cây lạnh lùng đáp và cất bước ra đi. Cỏ im lặng nhìn theo, cúi đầu không nói. Cỏ ở lại một mình nơi triền đất thảo nguyên rộng lớn, còn Cây thì ngày càng vút cao và những cành lá ngày càng vươn xa. Bởi vì Cây mong một ngày đi đến bầu trời cao. Bởi vì Cây mơ ước một ngày được gặp các vì sao ngời sáng…

Khoảng cách của Cây và Cỏ cũng ngày càng xa hơn…

Cuộc sống lặng lẽ trôi đi. Cho đến một ngày, Cây đã trở thành bậc đại thụ sừng sững giữa thảo nguyên bát ngát nhưng vẫn chưa với được những vì sao cho riêng mình… Cỏ cũng không còn màu xanh nữa mà trở nên vàng úa, và lặng lẽ ở phía dưới cây cao.

Cây bắt đầu mệt mỏi nhận ra rằng mình không thể đi đến cái nơi bản thân vẫn cho là thiên đường hạnh phúc. Cây hối hận nhìn xuống phía dưới. Cỏ vẫn ngồi đó, vẫn đang vui đùa với những cánh hoa, vẫn đang thướt tha cùng muôn loài bướm.

Cây chợt cảm thấy nuối tiếc, hối hận khi hiểu: Hạnh phúc chính là điều mà Cây đã từng có và đánh mất. Cây buồn, nỗi buồn không thể nói cùng ai…

“Cây ở trên đó thế nào?” - Một ngày Cỏ cất tiếng hỏi thăm.

“Mọi thứ ở đây đều tốt. Được làm bạn với Gió và nghe tiếng chim hót líu lo. Cuộc sống muôn màu và rất là vui vẻ” - Cây ngẩng cao đầu trả lời ngọn Cỏ.

“Vậy là Cây đã tìm thấy những vì sao hạnh phúc ?” - Cỏ nhìn Cây hỏi tiếp.

Cây gật đầu đưa mắt nhìn Cỏ rồi khẽ mỉm cười quay đi, ngẩng cao đầu hướng về phía các vì sao lơ đãng. Không phải vì Cây muốn tiếp tục đi tìm hạnh phúc mà đơn giản, Cây đang cố tránh một ánh mắt nhìn. Vì Cây đang nói dối! Vì Cây biết mình cô độc. Vì Gió chỉ đến rồi Gió lại đi. Gió bỏ Cây ở lại và lả lơi thổi mãi chứ không bao giờ dừng lại. Và Chim cũng vậy, Chim không thể ở đó hót mãi cho Cây nghe.

Cây biết Cây là kẻ cô đơn nhưng cái bản tính kiêu căng vốn có đã không cho phép Cây hạ độ cao, thừa nhận sự nuối tiếc. Cây sợ phải xấu hổ, sợ tỏ ra mình yếu đuối. Vì thế, Cây mãi ngẩng cao đầu và không chịu nhìn xuống…

Cuộc sống lại lặng lẽ trôi đi… Cho đến một ngày, Bão đến! Cây đương đầu chống chọi. Bão gào rú, Cây ngả nghiêng rung chuyển. Bão thổi mạnh, Cây bật gốc lung lay. Bão cười, Bão đẩy nhẹ, Cây ngã xuống đổ gục, nằm yên trên thảo nguyên lạnh lẽo… Cây kiệt sức, lịm đi.

Hôm sau Bão hết, trời xanh lại hừng sáng. Cây mở mắt nhìn lên, bầu trời xa vời vợi, nhưng màu xanh của Cỏ thì lại thật gần, và ấm áp.

Cây chết, cỏ mọc xung quanh. Một thời gian sau nơi cây đổ xuống mọc lên một loài cây lạ. Và người ta đặt cho nó tên là cây Xấu Hổ. Một cây Xấu Hổ với cỏ mọc xung quanh.

Cổ tích cánh diều 

Từ những ngày tôi vừa hiểu chuyện, tôi đã thấy mình nằm trên giường. Luôn là như thế. Mẹ tôi, cha tôi, và mọi người, tất cả đều bảo rằng tôi luôn phải nghỉ ngơi, phải giữ gìn sức khỏe, phải chăm chỉ uống thuốc, và nhớ là đừng đi đâu ra ngoài. Vì tôi bệnh.

Vậy là, tôi chẳng khi nào được nhìn thấy gì ngoài căn phòng của mình. Một căn phòng màu trắng, tất cả đều trong phòng đều trắng. Mà tôi thì ghét màu trắng lắm.

Tôi hay ngồi bên cửa sổ và nhìn lên bầu trời cao. Tôi chẳng biết trên ấy có gì ngoài những áng mây lững lờ kia. Nhưng, giá mà tôi được là một trong những áng mây kia, có lẽ tôi sẽ rất hạnh phúc.

Là mây tôi sẽ trôi đi trôi đi từ nơi này sang nơi khác, trôi đi khắp nơi và dĩ nhiên, tôi sẽ thấy được quá chừng "thứ" mà trước đây tôi chưa bao giờ thấy. Những hoa, lá cỏ cây, những con đường, những mái nhà, những cánh đồng, và những đứa trẻ giống như tôi. Những đứa trẻ ấy, chắc hẳn chúng chẳng phải quẩn quanh trong mỗi căn phòng của mình như tôi đâu.

Là mây, tôi sẽ chẳng phải như tôi bây giờ, chỉ là một con bé, yếu ớt bệnh tật, chỉ có thể ngồi tựa mình bên cửa sổ nhìn lên trời cao và ước gì: một ngày kia tôi sẽ là mây. Mà, có lẽ là gì cũng được, chẳng cần cứ là mây, miễn là tôi có thể ở trên cao kia…

Từng ngày, từng ngày, tôi lại ngồi nơi cửa sổ phòng mình, và nhìn lên bầu trời. Tôi mơ, tôi ước và nghĩ mông lung về những điều tôi không biết được. Rồi một ngày, tôi gặp bạn…


o O o


"Trong mỗi đứa trẻ đều có một thiên thần. Nhưng rồi, con trai ạ, sẽ có một ngày, thiên thần đó sẽ ra đi. Ngày đó có thể là khi đứa trẻ đó lớn lên… Hay một ngày nào đó, cách này hay cách khác…" Có lần, ôm tôi vào lòng, mẹ khẽ xoa xoa đầu tôi và mỉm cười nói vậy. Tôi có hỏi mẹ tôi "Vậy trong con có thiên thần không hả mẹ, nhìn thiên thần đó như thế nào?"; lúc đó mẹ chỉ mỉm cười, chừng như rằng "Một ngày nào đó, con sẽ hiểu."

Tôi chẳng biết trong tôi có một thiên thần hay không nữa, nhưng chưa bao giờ tôi thấy thiên thần của tôi. Có những buổi chiều, rong chơi chán chê, tôi chạy ngang bờ suối và soi mình xuống dưới… dòm dòm. Lạ ghê, tôi cũng chỉ thấy tôi – một thằng nhóc đầu tóc bù xù, mồ hôi nhễ nhãi, đang cười nhăn răng chứ nào có thấy thiên thần nào đâu.

Rốt cuộc, tôi vẫn chưa bao giờ nhìn thấy một thiên thần. Mà không nhìn thấy thì dĩ nhiên tôi không biết thiên thần trông như thế nào rồi. Tôi cứ bám lấy mẹ tôi, cha tôi và cả những người lớn trong nhà (thì người lớn cái gì cũng biết mà) mà hỏi xem họ có bao giờ thấy thiên thần chưa, và trông thiên thần ra sao. Nhưng, chẳng ai chịu nói tôi nghe hết. Tất cả chỉ nhìn tôi và mỉm cười.

Vậy mà, có một hôm tôi thấy thiên thần. Đó là buổi chiều, khi tôi trông thấy bạn…


o O o


"Thiên thần trông rất đẹp, con trai của ta ạ!"- có lần mẹ đã nói với cậu bé như thế. Và bây giờ, trước mắt cậu là một cô bé rất đẹp. Mà đẹp là thế nào nhỉ? Chắc cậu cũng chẳng rõ điều này lắm đâu. Cậu chỉ biết cái cô bé đang tựa mình bên cửa sổ nhìn lên bầu trời cao cao kia sao mà nhìn… hay thế kia. Đôi mắt cô bé to ơi là to, tròn ơi là tròn, và đen lay láy. Nhưng sao, trông cô bé có vẻ buồn buồn. Nhìn cô bé, cậu bé không dưng cảm thấy trong lòng mình sao sao đó. Là lạ.

- Bạn ơi, bạn có phải là một thiên thần không vậy? – Cậu bé bước đến gần bên cửa sổ và hỏi.

Cô bé ngạc nhiên, chẳng biết cậu bé kia từ đâu chui ra, mà cũng ngạc nhiên vì câu hỏi lạ lùng của cậu bé. Ngớ người ra một chút, rồi cô bé mỉm cười trả lời:

- Không đâu, mình không phải một thiên thần. Vậy còn bạn, bạn có phải một thiên thần không?

- Không, mình không phải thiên thần. – Cậu bé lắc đầu – Vậy ra bạn không phải thiên thần. Tiếc thật!

- Bạn muốn gặp một thiên thần lắm à?

- Ừ, mẹ mình nói thiên thần rất đẹp. Và trong mỗi đứa trẻ như mình, như bạn đều có một thiên thần. Nhưng mà mình chưa bao giờ nhìn thấy thiên thần của mình. Bạn có bao giờ nhìn thấy thiên thần của bạn chưa?

- Chưa. – Cô bé lắc đầu, tự nhiên cô lại thấy buồn ghê gớm – Mình chưa bao giờ nhìn thấy thiên thần. (và cô bé thở dài) Mình chưa thấy gì ngoài những gì trong phòng này, và bầu trời trên cao kia.

- Vì sao vậy?

- Mẹ mình nói là vì mình bệnh, nên tốt nhất là đừng đi đâu ra ngoài. Và thế là, mình chưa bao giờ thấy gì ngoài kia cả. Nếu có một thiên thần ở đây cạnh mình thì chắc mình vui hơn. Ít ra thiên thần cũng có thể kể mình nghe về những gì ngoài kia. Nhưng, mình cũng chưa bao giờ gặp được một thiên thần…

Nghe cô bé nói, cậu bé như chợt hiểu ra. Bỗng nhiên cậu trầm ngâm như… người lớn. Rồi cậu nói:

- Rồi sẽ một ngày nào đó, bạn gặp được thiên thần thôi mà. Mẹ nói, trong bọn mình đều có thiên thần, chắc chắn sẽ có lúc bọn mình đều sẽ gặp được thôi. Bạn chờ hen!

- Ừ, mình sẽ chờ. – Cô bé nhoẻn miệng cười.

- Không, tụi mình sẽ cùng chờ. Và trong khi chờ thiên thần đến, thì mình sẽ ở đây và kể bạn nghe về… ngoài kia kia hen.

- Bạn?

- Ừ, dĩ nhiên là mình rồi. – Cậu bé cười toe toét.


o O o


Tôi vẫn hay ngồi bên cửa sổ, và nhìn lên bầu trời. Vẫn y như hồi trước, nghĩa là không được đi đâu ra khỏi phòng. Nhưng khác là giờ bên cửa sổ, có thêm bạn. Bạn hay đến cùng tôi vào những buổi chiều chiều với cái đầu bù xù và miệng thì lúc nào cũng cười toe toét.

Bạn biết không, tôi khoái nhìn bạn cười lắm kìa. Khoái cả những câu chuyện bạn kể tôi nghe. Ở đó, tôi như thấy được "ngoài kia" có những gì, những gì. Thấy đất trời, thấy hoa lá cỏ cây, thấy… đủ thứ hết chơn. Thấy cả những cánh đồng trải dài vàng óng ả, và bạn đang chạy trên đó, mồ hôi nhễ nhại, miệng cười tươi. Bạn cùng những đứa trẻ khác hát những bài đồng dao, chơi đùa cùng nhau. Nghe sao vui quá chừng luôn!

Bạn kể tôi nghe về chuyện bạn hay làm nũng với mẹ, với cha để hỏi dò về thiên thần trong bạn. Bạn kể tôi nghe bạn đã đi tìm thiên thần của mình như thế nào. Tôi nghe bạn kể đến lúc bạn cuối nhìn xuống suối mà chẳng thấy thiên thần của bạn đâu, chỉ thấy một thằng nhóc là bạn thì nhịn không được mà cười sặc sụa.

Bạn ơi, chẳng biết đến khi nào thì bạn mới nhìn thấy thiên thần, chẳng biết lúc đó bạn có vui không… Tôi chỉ biết, một điều mà tôi sẽ chẳng nói bạn nghe đâu, tôi đã nhìn thấy trong bạn, có một thiên thần. Một thiên thần… ôi không đẹp lắm đâu nhưng mà luôn làm tôi vui, luôn mỉm cười với tôi. Một thiên thần mà tôi luôn tin tưởng và quý mến.

Và hôm nay, khi bạn hỏi tôi về mơ ước của mình, tôi đã mỉm cười, nhìn lên bầu trời cao cao xa xa kia, rồi tôi nắm lấy bàn tay bạn…


o O o


Đến bao giờ tôi mới nhìn thấy được thiên thần trong tôi? – Tôi hay vò vò mái đầu bù xù của mình mà tự hỏi như thế. Nếu có ước mơ, tôi chỉ ước mơ được nhìn thấy thiên thần của mình. Sẽ có một ngày nào đó, ước mơ của tôi hóa thành sự thật… Như mẹ tôi vẫn hay mỉm cười bảo tôi "Đến một lúc nào đó con sẽ hiểu, con trai của mẹ".

Ngày hôm qua, khi hí hửng khoe với bạn về mơ ước của mình, tôi có hỏi bạn thế bạn mơ ước gì. Vậy là bạn kể tôi nghe. Ước mơ của bạn, là bầu trời kia. Nhưng ngạc nhiên quá đi, ước mơ của bạn sao… bình thường như những gì mà tôi vẫn làm hằng ngày vậy. Có những điều tôi thấy bình thường ghê, mà không nhận ra rằng với bạn lại là cả một mơ ước. Kỳ ghê, bạn nhỉ!

"Hãy giữ giùm mình những ước mơ!" – Bạn nói, rồi bạn cầm lấy tay tôi, và đặt vào đó "gì đó" lạ lắm. Bàn tay yếu ớt của bạn siết bàn tay tôi và đưa về phía ngực tôi. Khi ấy, tự nhiên tôi thấy mình nghiêm trang hẳn lên. Mẹ tôi nói "Con trai phải có trách nhiệm! Phải giữ lời, nên cần suy nghĩ kỹ trước khi hứa với ai gì đó." Tôi có nên nhận ước mơ của bạn và cất nó ngay ngắn trong trái tim mình không?

Khó nghĩ quá đi. Nhưng, khi tôi nhìn bạn, tôi biết mình cần phải làm gì rồi nè.

Tôi hứa.

o O o


Tôi là một cánh diều.

Bây giờ tôi là một cánh diều. Nhưng từ trước đây, lâu lắm rồi, tôi chẳng có hình thù gì cả. Hình như, tôi chỉ là một thứ gì đó mà người ta gọi là ước mơ. Rồi một ngày, cậu bé tạo ra tôi – như bây giờ.

Những buổi chiều, cậu thả tôi lên bầu trời. Ở trên cao, tôi bắt đầu bay lượn. Tôi là tôi – một cánh diều, và tôi cũng là tôi của một ngày nào xa xăm lắm – những ước mơ. Những ước mơ mà cậu bé cất giữ từ trong một góc trái tim. Những ước mơ của một cô bé nào đó…

Tại sao? Tại sao cậu bé lại giữ lấy ước mơ của cô bé? Tại sao cậu bé lại tạo ra tôi? Có rất nhiều câu hỏi tại sao được đặt ra trong tôi mà tôi không biết được câu trả lời. Những khi ở trên cao, lười bay lượn, tôi len lén nhìn xuống thì thấy đôi mắt cậu bé sáng lắm.

Cậu nói gì đó như là "Bay cao nhé, ước mơ thiên thần của tôi…!"

Tác giả: Hải Phan

Mặt trời, mặt trăng và gió


Tia Nắng là một cô gái rất xinh xắn, dễ thương. Cô không đẹp cái vẻ đẹp lộng lẫy, kiêu xa. Mà đó là cái vẻ đẹp bình dị, gẫn gũi.

Lúc bấy giờ, có nhiều chàng trai để ý Tia Nắng lắm. Mặt Trời mạnh mẽ và ấm áp, chàng Gió kiêu ngạo và bướng bỉnh, Mặt Trăng nhẹ nhàng và gần gũi... Tất cả bọn họ đều mong có được Tia Nắng. Nhưng mỗi người đều thể hiện tình cảm của mình theo một cách riêng.

Mặt Trời nóng bỏng, luôn mang lại cho Tia Nắng những điều bất ngờ, thú vị, những cuộc dạo chơi bên dòng suối, trên những sườn đồi, trong những cánh rừng đầy hương hoa... Bên mặt Trời, Tia Nắng luôn thấy yêu đời, yêu cuộc sống.

Mặt Trăng lại luôn mang cho Tia Nắng những phút giây nhẹ nhàng, êm đềm, thoải mái nhất. Bên Mặt Trăng Tia Nắng luôn có những phút giây để nhìn lại mình, để nhớ lại những gì mình đã làm, đã trải qua. Từ đó tìm ra ý nghĩa của cuộc sống.

Còn với chàng Gió. Gió kiêu ngạo và lạnh lùng. Gió sâu sắc và tình cảm. Với Gió, Tia Nắng luôn được nhìn thấy cuộc sống ở khía cạnh khác. Một cuộc sống nội tâm, một cuộc sống không phải toàn màu hồng như với Măt Trời, không nhẹ nhàng như với Mặt Trăng. Nhưng cô sợ Gió. Bởi vì cô biết Gió không bao giờ là của cô cả. Gió kiêu ngạo lạnh lùng quá, để không thể cất lên được tiếng Yêu.

Và kết quả thì có lẽ ai cũng biết rồi. Tia Nắng đã chọn cho mình Mặt Trời. Cuộc sống luôn vận động, luôn hướng về phía trước.

Với Mặt Trăng, Tia Nắng chỉ có thể xem như một người bạn tốt, có thể trút những lo âu, phiền muộn, những khó khăn.

Còn với Gió, có thể đó là một sự ngưỡng mộ, một sự đồng cảm, và cũng có thể là tình yêu nữa. Nhưng Tia Nắng đã không chọn Gió. Đơn giản bởi vì Gió quá kiêu ngạo. Kiêu ngạo hay nhút nhát? Yêu mà không dám thể hiện, hay không chịu thể hiện.

Để rồi bây giờ, Tia Nắng luôn ở bên Mặt Trời, Mặt Trăng chỉ thỉnh thoảng gặp họ vào những lúc hoàng hôn. Còn Gió, ngày ngày vẫn lang thang, không nơi vô định. Gió đã đánh mất một thứ mà không bao giờ còn có thể tìm lại được nữa - tình yêu. Thời gian chẳng quay lại bao giờ.

Có những thứ đôi khi phải cúi xuống người ta mới có thể lấy được nó.

Chuyện bốn mùa


Khi Mùa Xuân chuẩn bị ra đi thì Mùa Hè đến. Mùa Hè mang đến cho Mùa Xuân một bó hoa hồng rất đẹp và nói :

"Mùa Xuân ơi, hãy tin tôi, tôi yêu em. hãy ở lại với tôi. Chúng ta sẽ cùng đi chơi, đến tất cả những nơi mà em muốn".

Nhưng Mùa Xuân không yêu Mùa Hè. Và cô ra đi. Mùa Hè buồn lắm. Mùa Hè ốm, nhiệt độ lên cao. Mọi thứ xung quanh trở nên rất nóng.

Sau một thời gian, Mùa Thu đến, mang theo rất nhiều trái cây ngon. Mùa Thu rất yêu Mùa Hè. Cô không muốn Mùa Hè phải buồn.

"Mùa Hè ơi, đừng buồn nữa. Hãy ở lại với em. Em sẽ mang lại hạnh phúc cho anh."

Nhưng với Mùa Hè, Mùa Xuân là tất cả. Và anh ra đi. Mùa Thu khóc, khóc nhiều lắm. Mọi thứ xung quanh trở nên ướt.

Một thời gian sau, Mùa Đông đến, mang theo cậu con trai của mình là Băng Giá. Những giọt nước mắt của Mùa Thu làm Băng Giá cảm thấy xao xuyến. Anh cảm thấy muốn đem lại hạnh phúc cho Mùa Thu

"Mùa Thu ơi, hãy ở bên tôi. Tôi sẽ xây cho em những lâu đài, những con đường bằng băng. Tôi sẽ hát cho em nghe những bài hát hay nhất. Hãy ở bên tôi."

"Không, Băng Giá ạ. Ở bên anh tôi sẽ luôn cảm thấy lạnh lẽo thôi."

Và Mùa Thu ra đi. Băng Giá buồn lắm. Gió thổi mạnh. Chỉ trong một đêm thôi, mọi thứ trở nên trắng xóa bởi tuyết. Mùa Đông thấy con như vậy thì buồn lắm. Bà nói:

"Tại sao con không yêu Mùa Xuân ? Cô ấy đã đến và hứa sẽ mang lại cho con hạnh phúc."

"Không mẹ ơi, con không thích Mùa Xuân. Chúng ta hãy rời khỏi đây đi."

Và họ ra đi.

Chỉ còn lại một mình Mùa Xuân. Cô khóc. Nhưng rôì, bất chợt Mùa Xuân nhìn ra xung quanh: "Ôi tại sao mình phải khóc chứ? Mình còn rất trẻ, và xinh đẹp nữa. Thời gian dành cho mình không nhiều. Tại sao mình không làm những việc có ý nghĩa hơn?".

Và mọi thứ như sống lại: cây cối tươi xanh, ra hoa, đâm chồi, nảy lộc....

Tha thứ mãi mãi


Lisa ngồi trên sàn với chiếc hộp trước mặt. Cái hộp cũ kĩ đựng 1 tờ giấy kẻ ô vuông. Và đây là câu chuyện đằng sau những ô vuông...

- Các con phải tha thứ cho anh chị em mình bao nhiêu lần... - Cô giáo trường Chủ Nhật đọc to luôn câu trả lời cho cả lớp nghe: "70 nhân 7 lần! "

Lisa kéo tay Brent - em trai cô:

- Thế là bao nhiêu lần...

Brent viết số 490 lên góc vở Lisa. Brent nhỏ bé, vai hẹp, tay ngắn, đeo cặp kính quá khổ và tóc rối bù. Nhưng năng khiếu âm nhạc của cậu làm bạn bè ai cũng phục. Câụ học pianô từ năm lên 4, kèn darinet năm lên 7 và giờ đây cậu đang chinh phục cây đèn Oboa. Lisa chỉ giỏi hơn em trai mình mỗi 1 thứ: bóng rổ, 2 chị em thường chơi bóng rổ sau giờ học. Brent thấp bé lại yếu, nhưng nó không nỡ từ chối vì đó là thú vui duy nhất của Lisa giữa những bảng điểm chỉ toàn yếu với kém của cô.

Sau giờ học, 2 chị em lại chạy ra sàn bóng rổ. Khi Lisa tấn công, Brent bị khuỷu tay Lisa huých vào cằm. Lisa dễ dàng ghi điểm. Cô hả hê với bàn thắng cho đến khi nhìn thấy Brent ôm cằm.

- Em ổn cả chứ... Chị lỡ tay thôi mà!

- Không sao, em tha lỗi cho chị - Cậu bé cười - Phải tha thứ 490 lần và lần này là 1, vậy chỉ còn 489 lần nữa thôi nhé!

Lisa cười. Nếu nhớ đến những gì Lisa đã làm với Brent thì hẳn 490 lần đã hết từ lâu lắm.

Hôm sau, 2 chị em chơi bắn tàu trên giấy. Sợ thua, Lisa nhìn trộm giấy của Brent và dễ dàng "chiến thắng".

- Chị ăn gian! - Brent nhìn Lisa nghi ngờ.

Lisa đỏ mặt:

- Chị xin lỗi!

- Được rồi, em tha lỗi - Brent cười khẽ - Thế là chỉ còn 488 lần thôi, phải không...

Sự độ lượng của Brent làm Lisa cảm động. Tối đó, Lisa kẻ 1 biểu đồ với 490 hình vuông:

- Chúng ta dùng cái này để theo dõi những lần chị sai và em tha lỗi. Mỗi lần như vậy, chị sẽ gạch chéo 1 ô - Miệng nói, tay Lisa đánh dấu 2 ô. Rồi cô bé dán tờ biểu đồ lên tường.

Lisa có rất nhiều cơ hội đánh dấu vào biểu đồ. Mỗi khi nhận ra mình sai, Lisa xin lỗi rất chân thành. Và cứ thế... Ô thứ 211: Lisa giấu sách Tiếng Anh của Brent và cậu bé bị điểm 0. Ô thứ 394: Lisa làm mất chìa khoá phòng Brent... Ô thứ 417: Lisa dùng thuốc tẩy quá nhiều làm hỏng áo Brent... Ô thứ 489: Lisa mượn xe đạp của Brent và đâm vào gốc cây. Ô 490: Lisa làm vỡ chiếc cốc hình quả dưa mà Brent rất thích.

- Thế là hết - Lisa tuyên bố - Chị sẽ không có lỗi gì với em nữa đâu.

Brent chỉ cười: "Phải, phải"

Nhưng rồi vẫn có lần thứ 491. Lúc đó Brent là sinh viên trường nhạc và cậu được cử đi biểu diễn tại đại nhạc hội New York. Một niềm mơ ước thành hiện thực.

Người ta gọi điện đến thông báo lịch biểu diễn nhưng Brent không có nhà, Lisa nghe điện: " Hai giờ chiều ngày mùng 10 nhé! " Lisa nghĩ mình có thể nhớ được nên cô đã không ghi lại.

- Brent này, khi nào con biểu diễn... - Mẹ hỏi.

- Con không biết, họ chưa gọi điện báo ạ! Brent trả lời.

Lisa lặng người, mãi mới lắp bắp:

- Ôi!... Hôm nay ngày mấy rồi ạ...

- 12, có chuyện gì thế...

Lisa, bưng mặt khóc nức lên:

- Biểu diễn... 2 giờ... mùng 10... người ta gọi điện... tuần trước...

Brent ngồi yên, vẻ mặt nghi ngờ, không dám tin vào nhữnng gì Lisa nói.

- Có nghĩa là... buổi biểu diễn đã qua rồi......... - Brent hỏi.

Lisa gật đầu. Brent ra khỏi phòng, không nói thêm lời nào. Lisa về phòng, ngậm ngùi khóc. Cô đã huỷ hoại giấc mơ của em cô, làm cả gia đình thất vọng. Rồi cô thu xếp đồ đạc, lén bỏ nhà đi ngay đêm hôm đó, để lại 1 mảnh giấy dặn mọi người yên tâm.

Lisa đến Boston và thuê nhà sống ở ngay đó. Cha mẹ nhiều lần viết thư khuyên nhủ nhưng Lisa không trả lời: "Mình đã làm hại Brent, mình sẽ không bao giờ về nữa". Đó là ý nghĩ trẻ con của cô gái 19 tuổi.

Rất lâu sau, cô vô tình gặp lại người láng giềng cũ: bà Nelson.

- Tôi rất tiếc về chuyện của Brent... - Bà ta mở lời.

Lisa ngạc nhiên:

- Sao ạ...

Bà Nelson nhanh chóng hiểu rằng Lisa không biết gì. Bà kể cho cô nghe tất cả: xe chạy với tốc độ quá cao, Brent đi cấp cứu, các bác sĩ tận tâm nhưng Brent không qua khỏi. Ngay trưa hôm đó, Lisa quay về nhà.

Cô ngồi lặng yên trước chiếc hộp. Cô không thấy tờ biểu đồ ngày xưa kín đặc các gạch chéo mà lại có 1 tờ giấy lớn:

"Lisa yêu quý,
Em không muốn đếm những lần mình tha thứ, nhưng chị lại cứ muốn làm điều đó. Nếu chị muốn tiếp tục đếm, hãy dùng tấm bản đồ mới em làm cho chị.
Yêu thương,
Brent"

Mặt sau là 1 tờ biểu đồ giống như Lisa đã làm hồi bé, với rất nhiều ô vuông. Nhưng chỉ có 1 ô vuông đầu tiên có đánh dấu và bên cạnh là dòng chú thích bằng bút đỏ: "Lần thứ 491: Tha thứ, mãi mãi! "

Lá thư cuối cùng


Một lần trên xa lộ, tôi thấy một nhóm cảnh sát hoàng gia Canada và vài người công nhân đang tháo gỡ phần còn lại của một chiếc xe tải bị mắc kẹt bên vách đá. Tôi đậu xe lại, nhập vào nhóm tài xế xe tải đang lặng lẽ quan sát đội công nhân.

Một cảnh sát bước lại chỗ chúng tôi chậm rãi nói: "Rất tiếc, người tài xế đã chết khi chúng tôi phát hiện ra anh ta. Có lẽ anh ấy bị lạc tay lái trong lúc trời có bão tuyết hai ngày trước đây. Thật khó để nhận ra người bị nạn nếu chúng tôi không may mắn thấy ánh nắng phản chiếu từ kính chiếu hậu". Viên cảnh sát lắc đầu buồn bã, rút trong túi áo khoác một lá thư: "Đây này, các anh nên đọc cái này. Tôi đoán anh ấy đã sống được khoảng hai giờ trước khi chết vì lạnh".

Tôi chưa bao giờ thấy cảnh sát khóc. Tôi nghĩ họ đã thấy quá nhiều cái chết và chứng kiến nhiều cảnh tượng hãi hùng nên họ không còn cảm giác gì trước những việc tương tự. Nhưng viên cảnh sát ấy đã lau nước mắt và đưa tôi lá thư. Đọc thư, tôi cũng như những người tài xế khác, không nói lời nào, chỉ lặng lẽ giấu những giọt nước mắt, trở về xe của mình.

Những từ ngữ trong thư như nung cháy tôi. Và sau nhiều năm, nó vẫn còn khắc sâu trong trí nhớ, như thể tôi đang cầm nó trước mặt. Tôi muốn chia sẻ lá thư đó với bạn, bạn bè của bạn và gia đình của họ.


Thư của Bill, tháng 12 năm 2000

"Vợ yêu quý của anh,

Đây là lá thư mà không người đàn ông nào muốn viết. Nhưng anh cũng đủ may mắn khi có một ít thời gian nói lên những gì anh đã quên nói nhiều lần trước đây.

Anh yêu em, em yêu ạ. Em đã từng nói đùa rằng anh yêu chiếc xe tải còn hơn cả yêu em bởi vì anh dành nhiều thời gian cho nó quá! Anh yêu cái khối sắt này vì nó cần cho chúng ta. Nó chứng kiến anh vượt qua những nơi khó khăn, những giờ khó nhọc. Anh đã có thể luôn kỳ vọng vào nó trên những chuyến hàng xa và nó luôn mau chóng giúp anh hoàn thành công việc. Nó không bao giờ làm anh thất vọng. Nhưng em có biết rằng anh yêu em cũng bởi những lý do đó. Em cũng đã chứng kiến anh vượt qua những thời khắc khó khăn.

Anh nhớ anh đã than phiền về chiếc xe cũ kỹ vậy mà anh không nhớ em cũng từng than thở khi mệt mỏi trở về nhà. Anh quá lo nghĩ đến những rắc rối của mình đến nỗi không nghĩ gì đến em. Anh nghĩ về những thứ em đã phải từ bỏ vì anh: quần áo, du lịch, tiệc tùng, bạn bè... Em đã không bao giờ trách móc và vì lý do nào đó anh đã không bao giờ nhớ cám ơn em. Khi anh ngồi uống cà phê với bạn bè, anh luôn nói về chiếc xe và những khoảng tiền sửa chữa nó. Anh nghĩ anh đã quên mất em là người bạn đời của anh.

Sự hy sinh và phấn đấu của em cũng nhiều như việc anh cố gắng để có được một chiếc xe mới. Anh rất hãnh diện về chiếc xe này và anh cũng rất hãnh diện về em. Nhưng anh chưa bao giờ nói với em điều đó. Anh cho đó là điều dĩ nhiên em đã biết. Nhưng nếu anh dành nhiều thời gian với em thay vì để chùi rửa, lau bóng chiếc xe thì anh đã có thể nói những lời thật lòng mình với em.

Nhiều năm tháng qua, trong những lần rong ruổi trên đường, anh biết những lời cầu nguyện của em luôn theo anh. Nhưng lần này những lời đó không đủ. Anh đang đau quá. Anh đang trên chặng đường cuối cùng. Và anh muốn nói lên những điều mà lẽ ra anh phải nói nhiều lần trước đây. Những điều bị lãng quên vì anh quá quan tâm đến chiếc xe và công việc.

Anh đang nghĩ đến những ngày kỷ niệm của hai đứa hay ngày sinh nhật đã bỏ lỡ, cả những vở kịch, những trận đấu hockey của các con mà em phải tham dự một mình vì anh đang đâu đó trên đường. Anh đang nghĩ về những đêm em cô đơn và nghĩ đến anh đang ở đâu, công việc như thế nào. Anh đang nghĩ về những lúc anh muốn gọi cho em chỉ để nói lời chúc ngủ ngon nhưng vì lý do gì đó lại tiếp tục chạy xe. Anh nghĩ về những giây phút thanh thản, yên lành khi nghĩ đến em cùng các con. Những bữa cơm gia đình em dành nhiều thời gian để chuẩn bị và tìm nhiều lý do để giải thích với các con vì sao anh không ăn cùng. (Vì anh đang bận thay dầu cho xe, anh đang bận sửa xe, anh đang ngủ vì buổi sáng anh phải đi sớm,...). Luôn luôn có một lý do nào đó! Khi chúng ta lấy nhau, em không biết thay bóng đèn, nhưng chỉ hai năm sau em đã có thể sửa lò sưởi những khi trời bão trong khi anh đang chờ dở hàng ở Florida.

Anh đã phạm nhiều sai lầm trong đời nhưng nếu nói anh chỉ có một lần quyết định đúng, anh nghĩ đó là khi anh hỏi cưới em.

Cơ thể anh đang đau. Nhưng tim anh thì đau hơn nhiều. Em không có mặt lúc anh ra đi, lần đầu tiên từ khi chúng ta có nhau. Anh thật sự thấy cô đơn và sợ hãi. Anh cần em nhiều lắm và anh biết đã quá trễ rồi. Anh nghĩ thật là tức cười, bây giờ tình yêu của anh thì đang ở xa anh ngàn dặm còn khối sắt vô tri đã sai khiến cuộc sống của anh nhiều năm nay thì đang ở đây. Nhưng anh cảm thấy em đang ở cạnh. Anh có thể cảm nhận tình yêu của em, trông thấy khuôn mặt em. Em đẹp lắm, có biết không? Anh nghĩ gần đây anh không nói với em điều đó dù em vẫn rất xinh đẹp.

Hãy nói với các con rằng anh yêu chúng rất nhiều. Anh sợ phải ra đi quá nhưng giờ phút đó đã đến rồi em yêu ạ. Anh yêu em rất nhiều. Hãy nhớ chăm sóc bản thân và luôn nhớ rằng anh đã yêu em nhiều hơn bất cứ cái gì trên đời. Anh chỉ quên không nói với em điều đó mà thôi.

Anh yêu em!

Bobsy


Người mẹ trẻ 26 tuổi nhìn xuống đứa con đang bị bệnh bạch cầu đến giai đoạn chót. Mặc dù trái tim người mẹ tràn ngập đau khổ, cô vẫn có sự quả quyết mạnh mẽ. Như mọi cha mẹ khác, cô rất muốn con mình lớn lên và đạt được mọi ước mơ của mình. Bây giờ thì chuyện đó không thể có được nữa. Bệnh bạch cầu không cho phép con cô thực hiện ước mơ của mình. Nhưng cô vẫn muốn tạo ra cho con một điều kỳ diệu.

Cô nắm lấy tay con và hỏi "Bobsy, con có bao giờ nghĩ đến chuyện sẽ trở thành gì khi lớn lên không? Con có mơ ước về điều mà con sẽ làm trong cuộc đời mình?"

"Mẹ à, con vẫn ước mơ sẽ trở thành lính cứu hỏa khi con lớn lên."

Người mẹ mỉm cười "Hãy chờ xem chúng ta có thể làm cho ước mơ đó trở thành sự thật hay không." Trong ngày hôm đó, cô đi đến đội cứu hoả khu vực cua Phoenix, Arizona. Ở đó cô gặp Lính cứu hoả Bob, người có trái tim lớn hơn cả thành phố Phoenix. Cô giải thích ước mơ của con mình và xin cho con cô được đi một vòng trên xe cứu hỏa.

Người lính cứu hỏa Bob nói "Xem này, chúng tôi có thể làm hơn thế nữa. Nếu cô có thể chuẩn bị cho con vào 7 giờ sáng thứ Tư, chúng tôi sẽ cho cậu bé trở thành lính cứu hỏa danh dự của cả ngày. Cậu bé có thể tới trạm cứu hỏa, ăn cùng chúng tôi, chạy cùng chúng tôi tới tất cả các vụ cứu hoả trong ngày. Và nếu cô cho chúng tôi kích cỡ của con cô, chúng tôi sẽ làm cho cậu bé một bộ đồng phục lính cứu hỏa dành riêng cho cậu, với một cái mũ cứu hỏa - không phải là đồ chơi - với phù hiệu lính cứu hoả Phoenix trên đó, một bộ áo nhựa màu vàng như của chúng tôi và ủng cao su. Tất cả đều được làm tại Phoenix nên chúng ta sẽ có rất nhanh thôi."

Ba ngày sau người lính cứu hỏa Bob đến đón Bobsy, mặc cho cậu bộ đồng phục của lính cứu hỏa và đưa cậu từ giường bệnh đến chiếc xe cứu hỏa đang chờ. Bobsy ngồi ở ghế sau và giúp lái chiếc xe về đến trạm. Cậu bé cảm thấy như đang ở trên thiên đường.
Hôm đó có ba cú điện thoại gọi cứu hỏa và Bobsy tham dự cả ba cuộc xuất quân. Cậu đi trên một chiếc xe cứu hoả khác, một chiếc xe y tế, và cả trên chiếc xe của Chỉ huy lính cứu hỏa. Cậu còn được đài truyền hình địa phương quay phim.

Với giấc mơ trở thành sự thật, với tất cả tình yêu và sự quan tâm săn sóc mà mọi người dành chó, Bobsy vô cùng xúc động và hạnh phúc đến mức mà cậu đã sống thêm được ba tháng – một thời gian dài hơn mức tất cả các bác sĩ tiên đoán.

Một đêm nọ, tất cả các dấu hiệu sự sống của cậu bé tụt xuống một cách đột ngột. Người y tá trưởng nhớ đến ngày mà Bobsy sống như một lính cứu hỏa, cô gọi cho chỉ huy lính cứu hỏa và hỏi có thể gửi một người lính cứu hỏa trong đồng phục đến với cậu trong lúc này hay không. Người chỉ huy trả lời, "Chúng tôi sẽ có mặt ở đó trong vòng 5 phút nữa. Cô có thể giúp chúng tôi một việc được không? Khi cô nghe tiếng và ánh chớp phát ra từ xe cứu hỏa chạy đến thì xin cô hãy thông báo qua radio cho toàn bệnh viện nghe rằng đó không phải là có báo động cháy. Đó chỉ là đội cứu hỏa đến để chia tay với một trong trong những thành viên tuyệt vời nhất của mình. Và xin cô hãy mở cửa sổ của phòng cậu bé. Xin cám ơn."

Khoảng 5 phút sau, chiếc xe cứu hỏa với cả móc và thang chạy đến bệnh viện. dựng cái thang lên cho đến cửa sổ phòng Bobsy ở lầu 3, 14 lính cứu hỏa nam và 2 lính cứu hỏa nữ trèo qua thang vào phòng của Bobsy. Được mẹ cậu bé cho phép, họ ôm cậu và nói với cậu bé rằng họ rất yêu cậu.

Với hơi thở cuối cùng trong cuộc đời mình, Bobsy nhìn lên người chỉ huy và nói "Thưa chỉ huy, vậy cháu là lính cứu hỏa thật sự phải không?"

"Phải, cháu là lính cứu hỏa thật sự." người chỉ huy nói.

Với những lời nói đó, Bobsy mỉm cười và nhắm mắt lại mãi mãi.

Cánh cửa không khóa


Cô gái mới có 18 tuổi, cô - như hầu hết các thanh niên ngày nay - chán sống chung trong một gia đình nền nếp. Cô chán lối sống khuôn phép của gia đình. Cô muốn rời khỏi gia đình:

- Con ko muốn tin ông trời của ba mẹ. Con mặc kệ, con đi đây!

Thế là cô quyết tâm bỏ nhà đi, quyết định lấy thế giới bao la làm nhà mình. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, cô bị ruồng bỏ bì ko tìm ra việc làm, cô phải làm gái đứng đường, đem thân xác, hình hài mình ta làm thứ để mua bán, đổi chác. Năm tháng cứ thế trôi qua, cha cô qua đời, mẹ cô già đi và cô con gái đó ngày càng sa đọa trong lối sống của mình.

Không còn chút liên lạc nào giữa hai mẹ con trong những năm tháng ấy. Bà mẹ nghe đồn về lối sống của con gái mình, bà đã đi tìm con trong khắp thành phố. Bà đến tuèng nhóm cứu trợ với lời thỉnh cầu đơn giản:

- Làm ơn cho tôi chưng tấm hình ở đây!

Đó là tấm hình một bà mẹ tóc muối tiêu, mỉm cười với hàng chữ: "Mẹ vẫn yêu con... Hãy về nhà đi con!".

Vài tháng lại trôi qua, vẫn không có gì xảy ra. Rồi một ngày, cô gái đến toán cứu trợ nọ để nhận một bữa ăn cứu đói. Cô chẳng buồn chú ý đến những lời giáo huấn, mắt lơ đễnh nhìn những tấm hình và tự hỏi: "Có phải mẹ mình không nhỉ?".

Cô ko còn lòn dạ nào chờ cho hết buổi lễ. Cô đứng lên, ra xem kĩ bức ảnh. Đúng rồi, đúng là mẹ cô và cả những điều bà viết nữa: "Mẹ vẫn yêu con... Hãy về nhà đi con!". Đứng trước tấm hình, cô bật khóc.

Lúc đó trời đã tối nhưng bức hình đã làm cô gái xúc động đến mức cô quyết định phải đi bộ về nhà. Về đến nhà trời đã sáng tỏ. Cô sợ hãi khép nép không biết sẽ phải nói ra sao. Khẽ gõ cửa, cô thấy cửa không khoá. Cô nghĩ chắc có trộm vào nhà. Lo lắng cho sự an toàn của mẹ mình, cô gái trẻ chạy vội lên buồn ngủ của bà và thấy bà vẫn đang ngủ yên. Cô đánh thức mẹ mình dậy:

- Mẹ ơi, con đây! Con đây! Con đã về nhà rồi!

Không tin vào đôi mắt mình, bà mẹ lau nước mắt rồi hai mẹ con ôm chầm lấy nhau. Cô gái nói với mẹ:

- Mẹ à, con lo quá. Thấy cửa không khoá, con cứ nghĩ nhà có trộm!

Bà mẹ nhìn con âu yếm:

- Không phải đâu con à! Từ khi con đi, cửa nhà mình chưa bao giờ khoá. Mẹ sợ lúc nào đó con trở về mà mẹ không có ở đây để mở cửa cho con!

Và cô gái lại gục đầu vào lòng mẹ, bật khóc!

Câu chuyện bát mì


Trong cuộc sống ngày nay, xin đừng quên rằng còn tồn tại lòng nhân ái. Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì"..Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.

o O o

Đêm giao thừa, ăn mì sợi đón năm mới là phong tục tập quán của người Nhật, cho đến ngày đó công việc làm ăn của quán mì rất phát đạt. Ngày thường, đến chạng vạng tối trên đường phố hãy còn tấp nập ồn ào nhưng vào ngày này mọi người đều lo về nhà sớm hơn một chút để kịp đón năm mới. Vì vậy đường phố trong phút chốc đã trở nên vắng vẻ.

Ông chủ Bắc Hải Đình là một người thật thà chất phát, còn bà chủ là một người nhiệt tình, tiếp đãi khách như người thân. Đêm giao thừa, khi bà chủ định đóng cửa thì cánh cửa bị mở ra nhè nhẹ, một người phụ nữ trung niên dẫn theo hai bé trai bước vào. đứa nhỏ khoảng sáu tuổi, đứa lớn khoảng 10 tuổi. Hai đứa mặc đồ thể thao giống nhau, còn người phụ nữ mặc cái áo khoác ngoài lỗi thời.

- Xin mời ngồi!

Nghe bà chủ mời, người phụ nữ rụt rè nói:

- Có thể... cho tôi một… bát mì được không?

Phía sau người phụ nữ, hai đứa bé đang nhìn chăm chú.

- Đương nhiên… đương nhiên là được, mời ngồi vào đây.

Bà chủ dắt họ vào bàn số hai, sau đó quay vào bếp gọi to:

- Cho một bát mì.

Ba mẹ con ngồi ăn chung một bát mì trông rất ngon lành, họ vừa ăn vừa trò chuyện khe khẽ với nhau. “Ngon quá” - thằng anh nói.

- Mẹ, mẹ ăn thử đi - thằng em vừa nói vừa gắp mì đưa vào miệng mẹ.

Sau khi ăn xong, người phụ nữ trả một trăm năm mươi đồng. Ba mẹ con cùng khen: “Thật là ngon ! Cám ơn !” rồi cúi chào và bước ra khỏi quán.

- Cám ơn các vị ! Chúc năm mới vui vẻ - ông bà chủ cùng nói.

Công việc hàng ngày bận rộn, thế mà đã trôi qua một năm. Lại đến ngày 31/12, ngày chuẩn bị đón năm mới. Công việc của Bắc Hải Đình vẫn phát đạt. So với năm ngoái, năm nay có vẻ bận rộn hơn. Hơn mười giờ, bà chủ toan đóng cửa thì cánh cửa lại bị mở ra nhè nhẹ. Bước vào tiệm là một người phụ nữ dẫn theo hai đứa trẻ. Bà chủ nhìn thấy cái áo khoác lỗi thời liền nhớ lại vị khách hàng cuối cùng năm ngoái.

- Có thể… cho tôi một… bát mì được không?

- Đương nhiên… đương nhiên, mời ngồi!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai như năm ngoái, vừa nói vọng vào bếp:

- Cho một bát mì.

Ông chủ nghe xong liền nhanh tay cho thêm củi vào bếp trả lời:

- Vâng, một bát mì!

Bà chủ vào trong nói nhỏ với chồng:

- Này ông, mình nấu cho họ ba bát mì được không?

- Không được đâu, nếu mình làm thế chắc họ sẽ không vừa ý.

Ông chủ trả lời thế nhưng lại bỏ nhiều mì vào nồi nước lèo, ông ta cười cười nhìn vợ và thầm nghĩ: “Trông bà bề ngoài khô khan nhưng lòng dạ cũng không đến nỗi nào!”

Ông làm một tô mì to thơm phức đưa cho bà vợ bưng ra. Ba mẹ con ngồi quanh bát mì vừa ăn vừa thảo luận. Những lời nói của họ đều lọt vào tai hai vợ chồng ông chủ quán.

- Thơm quá!

- Năm nay vẫn được đến Bắc Hải Đình ăn mì thật là may mắn quá!

- Sang năm nếu được đến đây nữa thì tốt biết mấy!

Ăn xong, trả một trăm năm mươi đồng, ba mẹ con ra khỏi tiệm Bắc Hải Đình.

- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ!

Nhìn theo bóng dáng ba mẹ con, hai vợ chồng chủ quán thảo luận với nhau một lúc lâu.

Đến ngày 31/12 lần thứ ba, công việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn rất tốt, vợ chồng ông chủ quán bận rộn đến nỗi không có thời gian nói chuyện. Đến 9g30 tối, cả hai người đều cảm thấy trong lòng có một cảm giác gì đó khó tả. Đến 10 giờ, nhân viên trong tiệm đều đã nhận bao lì xì và ra về. Ông chủ vội vã tháo các tấm bảng trên tường ghi giá tiền của năm nay là “200đ/bát mì” và thay vào đó giá của năm ngoái “150đ/bát mì”. Trên bàn số hai, ba mươi phút trước bà chủ đã đặt một tờ giấy “Đã đặt chỗ”. Đúng 10g30, ba mẹ con xuất hiện, hình như họ cố chờ khách ra về hết rồi mới đến. Đứa con trai lớn mặc bộ quần áo đồng phục cấp hai, đứa em mặc bộ quần áo của anh, nó hơi rộng một chút, cả hai đứa đêu đã lớn rất nhiều.

- Mời vào! Mời vào! - bà chủ nhiệt tình chào đón.

Nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của bà chủ, người mẹ chậm rãi nói:

- Làm ơn nấu cho chúng tôi…hai bát mì được không?

- Được chứ, mời ngồi bên này!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai, nhanh tay cất tờ giấy “Đã đặt chỗ” đi, sau đó quay vào trong la to: "Hai bát mì”

- Vâng, hai bát mì. Có ngay.

Ông chủ vừa nói vừa bỏ ba phần mì vào nồi.

Ba mẹ con vừa ăn vừa trò chuyện, dáng vẻ rất phấn khởi. Đứng sau bếp, vợ chồng ông chủ cũng cảm nhận được sự vui mừng của ba mẹ con, trong lòng họ cũng cảm thấy vui lây.

- Tiểu Thuần và anh lớn này, hôm nay mẹ muốn cảm ơn các con!

- Cảm ơn chúng con? Tại sao ạ?

- Chuyện là thế này: vụ tai nạn xe hơi của bố các con đã làm cho tám người bị thương, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một phần, phần còn lại chúng ta phải chịu, vì vậy mấy năm nay mỗi tháng chúng ta đều phải nộp năm mươi ngàn đồng.

- Chuyện đó thì chúng con biết rồi - đứa con lớn trả lời.

Bà chủ đứng bên trong không dám động đậy để lắng nghe.

- Lẽ ra phải đến tháng ba năm sau chúng ta mới nộp hết nhưng năm nay mẹ đã nộp xong cả rồi!

- Hả, mẹ nói thật đấy chứ?

- Ừ, mẹ nói thật. Bởi vì anh lớn nhận trách nhiệm đi đưa báo, còn Tiểu Thuần giúp mẹ đi chợ nấu cơm làm mẹ có thể yên tâm làm việc, công ty đã phát cho mẹ một tháng lương đặc biệt, vì vậy số tiền chúng ta còn thiếu mẹ đã nộp hết rồi.

- Mẹ ơi! Anh ơi! Thật là tốt quá, nhưng sau này mẹ cứ để con tiếp tục nấu cơm nhé.

- Con cũng tiếp tục đi đưa báo. Tiểu Thuần chúng ta phải cố gắng lên!

- Mẹ cám ơn hai anh em con nhiều!

- Tiểu Thuần và con có một bí mật chưa nói cho mẹ biết. Đó là vào một ngày chủ nhật của tháng mười một, trường của Tiểu Thuần gửi thư mời phụ huynh đến dự một tiết học. Thầy giáo của Tiểu Thuần còn gửi một bức thư đặc biệt cho biết bài văn của Tiểu Thuần đã được chọn làm đại diện cho Bắc Hải đảo đi dự thi văn toàn quốc. Con nghe bạn của Tiểu Thuần nói mới biết nên hôm đó con đã thay mẹ đến dự.

- Có thật thế không? Sau đó ra sao?

- Thầy giáo ra đề bài: “Chí hướng và nguyện vọng của em là gì?” Tiểu Thuần đã lấy đề tài bát mì để viết và được đọc trước tập thể nữa chứ. Bài văn được viết như sau: “Ba bị tai nạn xe mất đi để lại nhiều gánh nặng. Để gánh vác trách nhiệm này, mẹ phải thức khuya dậy sớm để làm việc”. Đến cả việc hàng ngày con phải đi đưa báo, em cũng viết vào bài nữa. Lại còn: “Vào tối 31/12, ba mẹ con cùng ăn một bát mì rất ngon. Ba người chỉ gọi một tô mì, nhưng hai vợ chồng bác chủ tiệm vẫn cám ơn và còn chúc chúng tôi năm mới vui vẻ nữa. Lời chúc đó đã giúp chúng tôi có dũng khí để sống, khiến cho gánh nặng của ba để lại nhẹ nhàng hơn”. Vì vậy Tiểu Thuần viết rằng nguyện vọng của nó là sau này mở một tiệm mì, trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất ở Nhật Bản, cũng sẽ nói với khách hàng của mình những câu như: “Cố gắng lên ! Chúc hạnh phúc ! Cám ơn !”

Đứng sau bếp, hai vợ chồng chủ quán lặng người lắng nghe ba mẹ con nói chuyện mà nước mắt lăn dài.

- Bài văn đọc xong, thầy giáo nói: anh của Tiểu Thuần hôm nay thay mẹ đến dự, mời em lên phát biểu vài lời.

- Thật thế à? Thế lúc đó con nói sao?

- Bởi vì quá bất ngờ nên lúc đầu con không biết phải nói gì cả, con nói: “Cám ơn sự quan tâm và thương yêu của thầy cô đối với Tiểu Thuần. Hàng ngày em con phải đi chợ nấu cơm nên mỗi khi tham gian hoạt động đoàn thể gì đó nó đều phải vội vả về nhà, điều này gây không ít phiền toái cho mọi người. Vừa rồi khi em con đọc bài văn thì trong lòng con cảm thấy sự xấu hổ nhưng đó là sự xấu hổ chân chính. Mấy năm nay mẹ chỉ gọi một bát mì, đó là cả một sự dũng cảm. Anh em chúng con không bao giờ quên được… Anh em con tự hứa sẽ cố gắng hơn nữa, quan tâm chăm sóc mẹ nhiều hơn. Cuối cùng con nhờ các thầy cô quan tâm giúp đỡ cho em con.”

Ba mẹ con nắm tay nhau, vỗ vai động viên nhau, vui vẻ cùng nhau ăn hết tô mì đón năm mới rồi trả 300 đồng, nói câu cám ơn vợ chồng chủ quán, cúi chào và ra về. Nhìn theo ba mẹ con, vợ chồng ông chủ quán nói với theo:

- Cám ơn! Chúc mừng năm mới!

Lại một năm nữa trôi qua.

Bắc Hải Đình vào lúc 9g tối, bàn số hai được đặt một tấm giấy “Đã đặt chỗ” nhưng ba mẹ con vẫn không thấy xuất hiện.

Năm thứ hai rồi thứ ba, bàn số hai vẫn không có người ngồi. Ba mẹ con vẫn không thấy trở lại. Việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn như mọi năm, toàn bộ đồ đạc trong tiệm được thay đổi, bàn ghế được thay mới nhưng bàn số hai thì được giữ lại y như cũ.

“Việc này có ý nghĩa như thế nào ?” Nhiều người khách cảm thấy ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh này nên đã hỏi. Ông bà chủ liền kể lại câu chuyện bát mì cho mọi người nghe. Cái bàn cũ kia được đặt ngay chính giữa, đó cũng là một sự hy vọng một ngày nào đó ba vị khách kia sẽ quay trở lại, cái bàn này sẽ dùng để tiếp đón họ. Bàn số hai “cũ” trở thành “cái bàn hạnh phúc”, mọi người đều muốn thử ngồi vào cái bàn này.

Rồi rất nhiều lần 31/12 đã đi qua.

Lại một ngày 31/12 đến. Các chủ tiệm lân cận Bắc Hải Đình sau khi đóng cửa đều dắt người nhà đến Bắc Hải Đình ăn mì. Họ vừa ăn vừa chờ tiếng chuông giao thừa vang lên. Sau đó, mọi người đi bái thần, đây là thói quen năm, sáu năm nay. Hơn 9g30 tối, trước tiên vợ chồng ông chủ tiệm cá đem đến một chậu cá còn sống. Tiếp đó, những người khác đem đến nào là rượu, thức ăn, chẳng mấy chốc đã có khoảng ba, bốn chục người. Mọi người rất vui vẻ. Ai cũng biết lai lịch của bàn số hai. Không ai nói ra nhưng thâm tâm họ đang mong chờ giây phút đón mừng năm mới. Người thì ăn mì, người thì uống rượu, người bận rộn chuẩn bị thức ăn… Mọi người vừa ăn, vừa trò chuyện, từ chuyện trên trời dưới đất đến chuyện nhà bên có thêm một chú nhóc nữa. Chuyện gì cũng tạo thành một chuỗi câu chuyện vui vẻ. Ở đây ai cũng coi nhau như người nhà.

Đến 10g30, cửa tiệm bỗng nhiên mở ra nhè nhẹ, mọi người trong tiệm liền im bặt và nhìn ra cửa. Hai thanh niên mặc veston, tay cầm áo khoác bước vào, mọi người trong quán thở phào và không khí ồn ào náo nhiệt trở lại. Bà chủ định ra nói lời xin lỗi khách vì quán đã hết chỗ thì đúng lúc đó một người phụ nữ ăn mặc hợp thời trang bước vào, đứng giữa hai thanh niên.

Mọi người trong tiệm dường như nín thở khi nghe người phụ nữ ấy nói chầm chậm:

- Làm ơn… làm ơn cho chúng tôi ba bát mì được không?

Gương mặt bà chủ chợt biến sắc. Đã mười mấy năm rồi, hình ảnh bà mẹ trẻ cùng hai đứa con trai chợt hiện về và bây giờ họ đang đứng trước mặt bà đây. Đứng sau bếp, ông chủ như mụ người đi, giơ tay chỉ vào ba người khách, lắp lắp nói:

- Các vị… các vị là…

Một trong hai thanh niên tiếp lời:

-Vâng! Vào ngày cuối năm của mười bốn năm trước đây, ba mẹ con cháu đã gọi một bát mì, nhận được sự khích lệ của bát mì đó, ba mẹ con cháu như có thêm nghị lức để sống. Sau đó, ba mẹ con cháu đã chuyển đến sống ở nhà ông bà ngoại ở Tư Hạ. Năm nay cháu thi đỗ vào trường y, hiện đang thực tập tại khoa nhi của bệnh viện Kinh Đô. Tháng tư năm sau cháu sẽ đến phục vụ tại bệnh viện tổng hợp của Trát Hoảng. Hôm nay, chúng cháu trước là đến chào hỏi bệnh viện, thuận đường ghé thăm mộ của ba chúng cháu. Còn em cháu mơ ước trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất Nhật Bản không thành, hiện đang là nhân viên của Ngân hàng Kinh Đô. Cuối cùng, ý định nung nấy từ bao lâu nay của chúng cháu là hôm nay, ba mẹ con cháu muốn đến chào hỏi hai bác và ăn mì ở Bắc Hải Đình này.

Ông bà chủ quán vừa nghe vừa gật đầu mà nước mắt ướt đẫm mặt. Ông chủ tiệm rau ngồi gần cửa ra vào đang ăn đầy miệng mì, vội vả nhả ra, đứng dậy nói:

- Này, ông bà chủ, sao lại thế này? Không phải là ông bà đã chuẩn bị cả mười năm nay để có ngày gặp mặt này đó sao ? Mau tiếp khách đi chứ. Mau lên!

Bà chủ như bừng tỉnh giấc, đập vào vai ông hàng rau, cười nói:

- Ồ phải… Xin mời! Xin mời! Nào bàn số hai cho ba bát mì.

Ông chủ vội vàng lau nước mắt trả lời:

- Có ngay. Ba bát mì.

Cà rốt, Trứng Và Hạt Cà Phê


Cô con gái hay than thở với cha sao bất hạnh này cứ vừa đi qua thì bất hạnh khác đã vội ập đến với mình, và cô không biết phải sống thế nào. Có những lúc quá mệt mỏi vì vật lộn với cuộc sống, cô đã muốn chối bỏ cuộc đời đầy trắc trở này.

Cha cô vốn là một đầu bếp. Một lần, nghe con gái than thở, ông dẫn cô xuống bếp. Ông bắc ba nồi nước lên lò và để lửa thật to. Khi ba nồi nước sôi, ông lần lượt cho cà rốt, trứng và hạt cà phê vào từng nồi riêng ra và đun lại để chúng tiếp tục sôi, không nói một lời.

Người con gái sốt ruột không biết cha cô đang định làm gì. Lòng cô đầy phiền muộn mà ông lại thản nhiên nấu. Nửa giờ sau người cha tắt bếp, lần lượt múc cà rốt, trứng và cà phê vào từng tô khác nhau.

Ông bảo con gái dùng thử cà rốt. "Mềm lắm cha ạ", cô gái đáp. Sau đó, ông lại bảo cô bóc trứng và nhấp thử cà phê. Cô gái cau mày vì cà phê đậm và đắng.

-Điều này nghĩa là gì vậy cha - cô gái hỏi.

- Ba loại thức uống này đều gặp phải một nghịch cảnh như nhau, đó là nước sôi 100 độ. Tuy nhiên mỗi thứ lại phản ứng thật khác.

Cà rốt khi chưa chế biến thì cứng và trông rắn chắc, nhưng sau khi luộc sôi, chúng trở nên rất mềm.

Còn trứng lúc chưa luộc rất dễ vỡ, chỉ có một lớp vỏ mỏng bên ngoài bảo vệ chất lỏng bên trong. Sau khi qua nước sôi, chất lỏng bên trong trở nên đặc và chắc hơn.

Hạt cà phê thì thật kỳ lạ. Sau khi sôi, nước của chúng trở nên rất đậm đà.

Người cha quay sang hỏi cô gái: Còn con? Con sẽ phản ứng như loại nào khi gặp phải nghịch cảnh.

Con sẽ như cà rốt, bề ngoài tưởng rất cứng cáp nhưng chỉ với một chút đau đớn, bất hạnh đã trở nên yếu đuối chẳng còn chút nghị lực?

Con sẽ là quả trứng, khởi đầu với trái tim mỏng manh và tinh thần dễ đổi thay. Nhưng sau một lần tan vỡ, ly hôn hay mất việc sẽ chín chắn và cứng cáp hơn.

Hay con sẽ giống hạt cà phê? Loại hạt này không thể có hương vị thơm ngon nhất nếu không sôi ở 100 độ. Khi nước nóng nhất thì cà phê mới ngon.

Cuộc đời này cũng vậy con ạ. Khi sự việc tưởng như tồi tệ nhất thì chính lúc ấy lại giúp con mạnh mẽ hơn cả. Con sẽ đối mặt với những thử thách của cuộc đời như thế nào? Cà rốt, trứng hay hạt cà phê?

Đường hầm xuyên trái đất


Hai anh em cậu bé kia có lần quyết định đào một cái hố sâu phía sau nhà. Khi hai cậu bé đang đào, vài đứa trẻ khác đến xem và hỏi họ đang làm gì. Cậu bé đào hố hào hứng trả lời rằng anh em cậu muốn đào một đường hầm xuyên qua trái đất.

Mấy đứa trẻ cười phá lên, chế giễu anh em cậu. Thế nhưng hai cậu bé vẫn tiếp tục đào. Một lúc sau, một cậu nhảy từ cái hố đang đào lên mặt đất, tay cầm một cái chai cũ kỹ đầy nhện, sâu bọ, côn trùng đáng sợ và tay kia giơ cao một túi chứa các viên đá xinh xắn đang lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời. Cậu chỉ cho những đứa trẻ kia xem những viên đá tuyệt đẹp ấy và tự hào nói: "Ngay cả khi không đào được đường hầm xuyên trái đất, thì ít nhất bọn mình cũng có thể tìm được những viên đá đẹp như thế, và mình cũng đã có dịp khuất phục lũ côn trùng gớm ghiếc này!

Cây bút cuộc đời


Giả sử có người tặng bạn một cây bút. Một cây bút màu còn phong kín.

Bạn không thể thấy được có bao nhiêu mực trong đó. Nó có thể hết mực sau vài dòng viết thử đầu tiên nhưng cũng có thể còn thật nhiều mực đủ để viết nên một (hoặc vài) kiệt tác để lại dấu ấn cho đời mãi mãi. Bạn không hề biết điều đó trước khi đặt bút.

Với luật chơi như vậy. Bạn phải nắm lấy cơ hội!

Thực sự, bạn có thể không cần phải thực hiện điều gì theo luật chơi này cả. Thay vì nắm chiếc bút trong tay, bạn có thể đặt nó vào giá hoặc trong ngăn kéo và rồi nó cũng sẽ khô mực mà chưa hề được sử dụng.

Nhưng nếu bạn quyết định sử dụng nó, bạn sẽ làm gì với nó. Bạn sẽ chơi trò chơi này như thế nào?

Bạn sẽ trù tính và lên kế hoạch trước khi viết ra? Những kế hoạch này có mênh mông quá đến nỗi bạn không thể nào đặt bút chăng?

Hay là bạn sẽ viết ngay, để rồi vật lộn với những dòng chữ tuôn tràn cuồn cuộn muôn hướng cuốn hút bạn đi theo?

Hoặc giả bạn sẽ viết một cách cẩn trọng, như thể cây bút có thể hết mực ngay, hay bạn sẽ giả vờ tin rằng (hoặc làm ra vẻ tin rằng) cây bút đó sẽ mãi mãi còn mực?

Và bạn sẽ viết về Tình yêu hay lòng Thù hận? Hạnh phúc hay Khổ đau? Cuộc sống hay Chết chóc?

Viết tất cả mọi điều hay chỉ viết vớ vẩn?

Bạn sẽ viết để làm vui cho mình hay làm đẹp lòng người khác? Hay làm vui cho chính mình bằng cách viết cho người khác?

Bạn sẽ viết những dòng run rẩy yếu ớt hay đậm nét rực rỡ? Viết giản dị hay hoa mỹ?

Bạn vẫn cứ viết chứ? Một khi bạn có chiếc bút trong tay dù không luật lệ nào bắt bạn phải viết?

Bạn sẽ tóm tắt? Sẽ phác thảo? Sẽ viết nguệch ngoạc? Hay viết say sưa?

Bạn sẽ viết ngay ngắn hay viết không theo hàng lối nào cả?

Có thật nhiều điều để cân nhắc phải không?

Bây giờ, Giả sử có người tặng bạn một cuộc sống...

Đóa hoa khát vọng


Có một nàng hoa Violet yêu kiều và ngào ngạt hương sống bình yên giữa đám bạn bè, đong đưa một cách hạnh phúc giữa muôn hoa khác trong một khu vườn vắng. Một buổi sáng nọ, khi những cánh hoa vẫn còn lấp lánh những hạt sương đêm, nàng nghiêng đầu và ngó quanh; nàng bỗng thấy nụ hoa hồng xinh đẹp vươn người lên cao một cách tự hào giống như ngọn đuốc đang cháy tỏa ánh sáng rạng ngời.

Nàng hoa Violet hé đôi môi màu xanh da trời và nói: "Thật không may làm sao khi ta sinh ra trong kiếp hoa này, với một vị trí hèn mọn làm sao. Mẹ tự nhiên đã tạo ra ta sao ngắn ngủn và nghèo nàn thế này... ta sống lè tè ngay mặt đất và không thể nào vươn được lên bầu trời trong xanh, hay ngước mặt đón ánh mặt trời như những nụ hồng kia"

Và khi nụ Hồng nghe những lời của người bạn láng giềng này, nàng đã cười và phê phán, "Em nói nghe kỳ lạ làm sao. Em đã thật may mắn mà em không biết vận may của mình. Mẹ tự nhiên đã ban tặng cho em một sắc đẹp và hương thơm mà bà đã không cho bất kỳ ai khác... Hãy dập tắt ý nghĩ ấy đi, bằng lòng với chính mình và nhớ rằng ai tự hạ thấp mình sẽ được nâng lên và ai tự nâng mình lên sẽ phải bị đè bẹp. "

Nàng hoa Violet trả lời, "Chị đang an ủi em bởi vì chị có được điều mà em ước ao... Chị còn định làm đắng lòng em với cái ý nghĩa chị là người vĩ đại... Thật đau đớn làm sao khi thuyết giáo về sự may mắn cho một trái tim đang đau khổ! Và mạnh mẽ thay khi đóng vai một kẻ dạy đời giữa kẻ yếu ớt"

Mẹ tự nhiên đã nghe thấy cuộc nói đối thoại giữa hoa Violet và hoa hồng; bà lại gần và nói: "Con gái violet của ta, điều gì đã xảy đến với con thế? Con đã từng rất ngọt ngào và khiêm cung trong tất cả những lời nói và hành động kia mà. Ðiều gì đã thâm nhập vào trong trái tim và làm cho con trở nên lạnh lùng thế kia? " Với một giọng bào chữa, Violet trả lời bà: "Ồ, người mẹ vĩ đại và nhân hậu, đầy lòng thương yêu và cảm thông, con van mẹ bằng tất cả trái tim và tâm hồn mình, hãy ban cho con một đặc ân và cho phép con được làm hoa hồng trong một ngày".

Mẹ tự nhiên đáp: "Con không hề biết điều con đang tìm kiếm; con không nhận nhức được tai họa tiềm ẩn đàng sau tham vọng mù quáng của con. Con sẽ hối hận nếu con là một hoa hồng, và khi đó việc ăn năn cũng là vô ích". Violet nài nỉ. "Hãy cho con thành một đóa hồng cao lớn, bởi vì con ước mong được ngẩng cao đầu với một niềm kiêu hãnh; đây sẽ là việc của riêng con, con bất chấp số phận mình ra sao. " Mẹ tự nhiên quát lên: "Ðóa hoa violet bất trị và ngu dốt kia, ta sẽ cho mi được toại nguyện, Nhưng khi tai họa rơi xuống đầu mi, mi hãy than khóc với chính mình đấy"

Và mẹ tự nhiên vươn ngón tay huyền bí và kỳ diệu ra, chạm vào rễ của Violet, Violet lập tức biến thành một đóa hồng cao lớn, vươn lên trên tất cả những đóa hoa khác trong vườn.

Bầu trời chiều bỗng dầy đặc mây đen, tiếng sấm dữ dội phá tan sự tĩnh lặng, một trận mưa như trút xuống khu vườn cùng những trận cuồng phong. Cơn bão dữ làm gãy nát cành và trốc gốc những cây hoa cao lớn, chỉ chừa lại những cây nhỏ nằm sát mặt đất thân thương. Khu vườn đơn độc ấy đã hứng chịu tai ương của những trận không chiến. Khi cơn bão tan đi, trời quang mây tạnh, tất cả những cành hoa kia nằm sõng sượt và không một cây nào có thể thoát khỏi cơn phẫn nộ của Tự nhiên ngoại trừ một nhóm violet nhỏ bé, náu mình bên cạnh bức tường của khu vườn.

Ngước đầu lên và nhìn thấy thảm kịch của các loài thảo mộc khác, một trong những đóa hoa violet mỉm cười hạnh phúc và lao xao với đồng loại: “Hãy nhìn cơn bão tố đã làm gì đối với những đóa hoa hợm hĩnh đây này! ”. Một nàng violet khác nói: “Chúng ta tuy nhỏ bé, và sống lè tè dưới đất, nhưng chúng ta an toàn trước cơn thịnh nộ của bầu trời”. Và nàng violet thứ ba thêm vào, “Bởi vì chúng ta thấp bé nên cơn bão kia không thể nào đánh bại được”

Vào giây phút ấy, nữ hoàng của loài violet đã nhìn thấy bên cạnh mình đóa hoa violet “cải đạo” kia bị gãy gập sau cơn bão và đang quằn quại trên nền đất ẩm giống như một thương binh trên chiến trường. Nữ hoàng violet nhìn lên, gọi cả họ hàng và nói: “Hãy xem kìa, các con gái của ta, hãy suy nghiệm về những gì mà Sự Tham Vọng đã đối xử với đóa hoa Violet, kẻ đã trở thành hoa hồng trong một giờ. Hãy nhớ rằng cảnh tượng ấy là một lời nhắc nhở cho số phận tốt đẹp của các con. ”

Ðóa hoa hồng đang hấp hối kia lay động và dồn hết tàn lực, khẽ nói:

“Các chị là người bằng lòng với mình, nhu mì và khờ khạo; tôi không bao giờ khiếp sợ bão tố. Ngày hôm qua, tôi cũng thế, đã hài lòng và mãn nguyện với Cuộc Sống, nhưng Sự Mãn nguyện đã như một thanh chắn, chặn giữa sự tồn tại của tôi và cơn bão dữ của Cuộc Sống, giam hãm tôi trong một sự bình yên bạc nhược và thiếu sinh khí và sự tĩnh lặng trong tâm hồn. Tôi có thể sống một cuộc sống như các chị đang sống bây giờ đây bằng cách bám chặt vào mặt đất với nỗi lo sợ... tôi có thể chờ cho mùa đông phủ tuyết lên mình và Thần Chết mang tôi đi, cũng như sẽ mang đi tất cả những hoa violet khác... giờ đây tôi đang hạnh phúc vì tôi đã vượt ra khỏi cái thế giới nhỏ bé của mình để khám phá được sự huyền bí của Vũ trụ... Ðiều mà các chị chưa bao giờ đạt đến. Có thể là tôi đã quá nhiều Tham Vọng, nhưng tôi đã lắng nghe sự tĩnh lặng của màn đêm, tôi nghe bầu trời nói với trái đất rằng: Khát vọng vươn lên là mục đích chủ yếu của bản chất chúng ta. Vào giây phút đó tâm hồn tôi xao động và trái tim tôi mong mỏi vươn tới một vị trí cao hơn sự tồn tại hữu hạn của tôi. Tôi nhận ra rằng ở vực thẳm không thể nào nghe được bài ca của các ngôi sao, và chính giây phút ấy tôi bắt đầu chiến đấu chống lại sự nhỏ bé của mình và thèm khát những gì đã không thuộc về tôi, cho đến khi sự nổi loạn đã biết thành một sức mạnh vĩ đại, và sự ao ước biến thành một chí hướng... Tự Nhiên, là một đối tượng vĩ đại cho những giấc mơ sâu thẳm trong con người chúng ta, đã ban cho tôi một đặc ân và chuyển tôi thành một hoa hồng với ngón tay kỳ diệu của người.

Hoa hồng im lặng một chút, và bằng giọng nói yếu ớt, pha lẫn niềm kiêu hãnh và sự mỹ mãn, nàng nói:

"Tôi đã sống một giờ như một đóa hồng kiêu hãnh; tôi đã tồn tại trong một thời khắc như một nữ vương; tôi đã nhìn thấy Vũ trụ bằng con mắt của loài hoa hồng; tôi đã nghe tiếng thì thầm của bầu trời bằng đôi tai của đóa hồng và hứng ánh nắng với những cánh hoa hồng. Ở đây có ai có được vinh dự như thế? ".

Nói xong những lời này, nàng gục xuống với một giọng nói gấp gáp: “Bây giờ tôi sẽ giã từ cuộc đời, bởi vì linh hồn tôi đã đạt được ước nguyện. Cuối cùng tôi đã mở mang được trí óc về một thế giới bao la vượt khỏi cái thế giới chật hẹp mà tôi sinh ra. Ðấy là mục tiêu của Cuộc Sống... Ðấy là điều bí mật của Sự Hiện Hữu". Nói xong đóa hồng run rẩy, từ từ khép lại những cánh hoa, trút hơi thở cuối cùng với một nụ cười tuyệt đẹp trên môi... một nụ cười tràn đầy niềm tin và hy vọng trong Cuộc Sống... một nụ cười của sự chiến thắng... một nụ cười của Thượng Ðế.

Tác giả: Kahlil Gibran - Nhị Tường dịch

Chiếc lá cuối cùng


Tại một quận nhỏ nằm về hướng tây công trường Washington, đường sá chạy rối loạn, quanh co, tròng tréo nhau tạo thành nhiều khu nhỏ, thường được gọi là những "cái ổ". Những "cái ổ" này cong lượn, hình thù thật kỳ dị. Một con đường cứ tự cắt mình ra một hoặc hai lần. Có chàng nghệ sĩ phát ngôn rằng đường sá như vậy cũng có cái... lợi của nó. Giả sử như có một tên đòi nợ đến thu tiền cọ tiền sơn các thân chủ họa sĩ ở đây, lòng vòng qua những con đường như vậy cuối cùng chỉ để tìm thấy chính... mình, với hai bàn tay không.

Vì vậy mà các nghệ sĩ tìm đến, lang thang trong cái làng cổ Greenwich để tìm thuê những căn nhà có những chiếc cổng xây theo kiểu kiểu Hà Lan từ thế kỷ thứ mười tám, cửa sổ quay về hướng bắc với giá thuê thật hạ Rồi họ mang vào những chiếc thùng bằng thiết, vài cái dĩa mòn lỉn kiếm được ở Đại Lộ Thứ Sáu và cứ như vậy cái làng cổ mặc nhiên trở thành một "thuộc địa" của đám nghệ sĩ.

Sue và Johnsy có một xưỡng vẽ ở lầu trên cùng của một căn nhà gạch ba từng thấp lè tè. Johnsy là tên gọi ở nhà của Joanna. Một người từ Main, một người từ California, họ gặp nhau tại quán cơm bình dân trên đường Số Tám, cùng yêu thích hội họa, cùng mê món rau díp trộn, tương đắc đến nỗi cột tay áo mướn chung với nhau một xưởng vẽ.

Đó là hồi tháng Năm. Vào tháng mười một thì trời phái một ông khách lạnh lùng mà các ngài bác sĩ thường gọi là Bệnh Viêm Phổi đến khủng bố khu "thuộc địa", thò cái bàn tay lạnh ngắt, sờ chỗ này một chút, vỗ chỗ kia một phát. Khu vực phía đông bị ảnh hưởng nặng nề với khá nhiều người bệnh, nhưng bước chân của ông khách chậm dần khi bước vào cái mê cung chật hẹp rêu phong của khu "thuộc địa"

Ông khách Viêm Phổi không phải là hạng người mà bạn thường gọi là ông bạn già hào hiệp. Cô Johnsy gốc Cali nhỏ bé, liễu yếu đó thật ra không phải là đối thủ xứng tay của lão già tay đỏ điếm đàng, nhưng lão vẫn đập cô ta tận tình. Vì vậy mà cô gái nằm xụi lơ, bất động trên chiếc giường sắt, mắt nhìn vào bức tường gạch của căn nhà kế cận xuyên qua khung cửa sổ nhỏ.

Một bữa sáng nọ, ông bác sĩ mời Sue ra ngoài hành lang, nhướng đôi mày rậm:

"Cô ta chỉ có chừng một phần..., để coi, phần mười cơ hội sống sót" Vừa nói ông vừa rảy rảy cái nhiệt độ kế. "Đó là vì cô ta không có chí cầu sinh. Cái cảnh bệnh nhân sắp hàng chờ chết chớ không chịu uống thuốc chắc phải làm cho các thầy chế thuốc xấu hổ. Cô bạn nhỏ của cô đã hạ quyết tâm không chịu bình phục rồi. Cô ta có mơ ước gì trong đầu không?"

Sue đáp:

"Cô ấy... muốn một ngày nào đó sẽ vẽ Vịnh Naples."

"Vẽ? Chậc! Cô ta có một cái gì đáng giá hơn trong đầu để nghĩ tới không, một người đàn ông chẳng hạn?"

"Đàn ông?" Sue lập lại với một giọng mũi khịt khịt. "Đàn ông mà đáng giá thật..., à... không, thưa bác sĩ, không có những chuyện như vậy."

"Chà, như vậy thì tệ thật!" Bác sĩ nói. "Tôi sẽ rán hết sức làm những gì mà khoa học có thể làm được. Nhưng hễ khi nào bệnh nhân của tôi bắt đầu nghĩ tới chiếc xe chở quan tài và đám đô tùy thì tôi trừ đi một nửa cái hiệu quả của thuốc men. Nếu cô có thể làm cho cô ấy thắc mắc một chút gì về mùa đông năm tới thì tôi có thể hứa với cô là cái cơ hội sống sót là một trên năm, còn không thì một trên mười."

Sau khi ông bác sĩ bỏ đi, Sue trở vào phòng làm việc và khóc đến nhão chiếc khăn giấy Nhật Bản. Sau đó cô vác cái giá vẽ vào phòng Johnsy, miệng ba hoa những câu bông đùa chọc vui.

Johnsy nằm im lìm bất động dưới tấm chăn phủ giường, mặt hướng về phía cửa sổ. Ngỡ là bạn đang ngủ, Sue ngưng những lời đùa giỡn.

Cô ta sắp xếp giá vẽ và bắt đầu minh họa cho một truyện đăng báo. Những họa sĩ trẻ dọn đường đến với nghệ thuật bằng cách minh họa cho các truyện trên báo, cũng như các nhà văn trẻ dọn đường đến với văn chương bằng ngòi bút.

Lúc Sue đang mặc áo quần, mang mắt kiếng cho một nhân vật anh hùng, một chàng kỵ sĩ miền Idaho, thì cô nghe một thứ âm thanh rầm rì, lập đi lập lại nhiều lần. Cô ta chạy vội lại bên giường người bệnh.

Johnsy đang mở tròn mắt, nhìn ra ngoài cửa sổ và đếm. Đếm ngược.

"Mười hai." một lát sau "Mười một", "Mười", rồi "Chín"; rồi "Tám" và "Bảy" gần như liền nhau.

Sue nhìn ra ngoài cửa sổ với vẻ bồn chồn lo lắng. Có gì ở ngoài đó để đếm đâu? Chỉ có một khoảng sân trống trơn buồn thảm và cái tường gạch của căn nhà cách đó hai mươi thước. Một giây nho già, thật già, gân guốc và cằn cỗi bò lên gần nửa bức tường. Những cơn gió lạnh mùa thu vừa qua làm lá rụng gần hết chỉ còn trơ lại mấy nhánh bám lủng lẳng vào bức tường gạch đổ nát.

Sue hỏi:

"Đếm gì vậy, nhỏ?"

"Sáu." Johnsy nói, gần như thì thầm. "Nó bắt đầu rụng nhanh rồi. Ba ngày trước còn cả trăm, làm mình đếm đến nhức đầu. Nhưng bây giờ thì dễ rồi. Lại một chiếc nữa rụng kìa. Chỉ còn có năm chiếc."

"Năm chiếc gì hở nhỏ? Nói cho Sudie biết với."

"Lá! Lá trên giây nho. Khi chiếc lá nho cuối cùng rơi xuống thì mình cũng sẽ đi luôn. Mình nghiệm ra điều đó ba hôm rồi. Bác sĩ không nói cho bạn biết như vậy sao?"

"Ồ, mình chưa bao giờ nghe được những chuyện vô lý như vậy." Sue gắt bạn, giọng pha một chút giễu cợt. "Cái giây nho già đó thì có liên quan gì đến sức khỏe của bạn? Bạn thường vẫn thích cái giây nho đó lắm mà, cái cô hư này. Đừng có suy nghĩ dại dột như vậy. Ồ, hồi sáng này bác sĩ nói là bạn có nhiều cơ hội bình phục lắm, để nhớ chính xác coi ổng nói sao, ổng nói, mười ăn một. Như vậy thì chắc ăn như bắp rồi, chắc ăn như mình chạy xe trên đường phố hay đi bộ qua các cao ốc ở New York vậy. Thôi, rán ăn chút súp nhá, rồi để cho con nhỏ Sudie này tiếp tục vẽ tranh bán kiếm chút tiền còm mua rượu cho con đang bệnh, mua thịt heo xay về ăn cho đỡ đói nhá."

"Bạn không cần phải mua thêm rượu nho." Johnsy nói mà mắt vẫn dán chặt ra ngoài cửa sổ. "Một chiếc nữa rụng. Không, mình không muốn ăn súp đâu. Vậy là chỉ còn lại bốn chiếc. Mình muốn nhìn thấy chiếc lá cuối cùng rơi trước khi trời tối. Rồi mình sẽ đi theo..."

Sue cúi xuống bên mình Johnsy:

"Johnsy, nhắm mắt lại và hứa là sẽ không nhìn ra ngoài cửa sổ nữa cho đến khi nào mình vẽ xong. Mình phải nộp mấy bản vẽ này vào ngày mai. Mình cần chút ánh sáng, nếu không thì bức tranh sẽ tối hù."

Johnsy hỏi, vẻ lạnh lùng:

"Bạn không vẽ ở phòng khác được à?"

"Mình cần phải ở đây với bạn." Sue đáp. "Ngoài ra, mình không muốn bạn cứ nhìn vào mấy cái lá nho chết tiệt đó."

"Vẽ xong thì nhớ cho biết liền." Johnsy nói và nhắm mắt lại, nằm bất động như một bức tượng bị đổ. "Tại mình muốn nhìn thấy chiếc lá cuối cùng rơi xuống. Mình chờ mệt quá rồi. Mình suy nghĩ mệt quá rồi. Mình muốn buông xuôi tất cả, để cho nó cứ tự do rơi xuống, rơi xuống như những chiếc lá tội nghiệp kia."

"Rán ngủ đi." Sue nói. "Mình phải kêu ông Behrman lên ngồi làm mẫu một người thợ mỏ nghèo. Mình sẽ đi chừng một phút. Đừng cử động gì cả cho đến khi mình trở lại, nhé."

Lão Behrman là một họa sĩ ở ngay dưới tầng trệt. Lão đã quá sáu mươi tuổi, có một bộ râu chảy dài từ một cái đầu to tướng xuống một thân hình nhỏ thó giống như bộ râu dài của thánh Moses trong tranh của Michael Angelo. Behrman là một nghệ sĩ thất bại. Lão cầm cọ đã bốn mươi năm rồi mà chẳng vẽ được một bức tranh nào cho ra hồn. Lúc nào lão cũng làm như sắp sửa thực hiện một tác phẩm lớn, nhưng thực sự chưa bao giờ bắt tay vào việc. Suốt mấy năm liền lão chẳng vẽ vời gì ngoài một vài bức tranh quảng cáo lem nhem. Lão kiếm sống bằng nghề làm người mẫu cho các họa sĩ trẻ trong khu thuộc địa vì các họa sĩ trẻ này không đủ tiền mướn các người mẫu chuyên nghiệp. Lão uống rượu như hũ chìm, và nói hoài về cái tác phẩm lớn sắp hoàn thành của mình. Đối với nhiều người thì lão là một lão già nhỏ con mà gân lắm, thường mạt sát thậm tệ cái tánh ủy mị yếu đuối của người khác và tự coi mình như một người dẫn dắt, bảo vệ hai cô họa sĩ trẻ trong cái xưỡng vẽ trên lầu.

Sue tìm thấy lão Behrman trong căn phòng nhỏ tối hù của lão ở lầu dưới, người nồng nặc mùi rượu dâu. Trong một góc phòng, tấm vải trên khung vẽ vẫn còn trống trơn nằm chờ hơn hai mươi năm rồi đường cọ đầu tiên của cái tác phẩm lớn của lão. Cô kể cho lão nghe về sự tưởng tượng lạ lùng của Johnsy, về nỗi lo là cô ta vốn đã mong manh, yếu đuối, khi nghị lực của cô cạn đi rồi thì cô sẽ trôi tuột đi như chiếc lá lìa cành.

Lão Behrman, cặp mắt đỏ ngầu chiếu thẳng ra trước, la lên với vẻ chế nhạo, khinh bỉ cái óc tưởng tượng ngu ngốc đó.

"Dà." Lão khóc. "Thế dan có người ngu nào nghĩ như con nhỏ đó là mình sẽ chít theo những chiếc lá nho khi nó lìa cành không? Lão chưa từng nghe chiện đó bao giờ. Không, Lão không làm cái người mẫu khổ hạnh ngu ngốc đó cho cô đâu, hiểu chưa. Sao cô lại để cho những chiện ngu xuẩn như dậy chạy dô đầu con nhỏ đó như dậy hả? Ờ, cái con nhỏ Johnsy tội nghiệp."

"Cô ta bệnh nặng và yếu lắm." Sue đáp. "Cơn sốt làm cho tâm trí cô ta trở nên hổn loạn, tưởng tượng ra những việc hoang đường. Được rồi. Ông Mehrman, nếu ông không muốn làm người mẫu cho tôi thì cũng không sao. Tôi biết ông chỉ là một lão già khó tánh, ba hoa, ngồi lê đôi mách."

"Cô đúng là cái giống đờn bà!" Lão Behrman la lên. "Ai nói là lão không chịu ngồi mẫu? Đi đi. Lão sẽ lên gặp cô. Suốt nửa tiếng đồng hồ vừa rồi lão đã giải thích là lão sẳn sàng ngồi mẫu mà. Dà, đây đâu phải là chỗ cho những người tốt như cô Johnsy nằm bịnh chớ. Một ngày nào đó lão sẽ dẽ xong tác phẩm lớn, rồi chúng ta sẽ rời bỏ chỗ này. Dà, đúng dậy."

Lúc hai người lên đến nơi thì Johnsy đang ngủ. Sue kéo tấm màn cửa sổ cho kín lại và ra dấu cho lão Behrman sang phòng kế. Cả hai cùng lo lắng nhìn mấy cọng giây nho bên ngoài cửa sổ. Rồi cả hai cùng nhìn nhau một lúc lâu không nói lời nào. Trời mưa dai dẳng và có chút tuyết rơi. Lão Behrman trong chiếc áo xanh cũ kỷ, bắt đầu ngồi lên trên cái ấm nước đặt lộn ngược giả làm tảng đá để làm mẫu một người thợ mỏ nghèo khó.

Sáng hôm sau, khi Sue thức dậy sau chừng một giờ ngủ mê, cô bắt gặp Johnsy với cặp mắt mở lớn, đờ đẫn đang nhìn chăm chăm vào một cái bóng màu xanh.

"Kéo cửa sổ lên. Mình muốn nhìn một chút." Cô thì thầm ra lệnh.

Sue làm theo một cách uể oải.

Nhưng, ô kìa, sau một cơn mưa dữ dội và những cơn gió vật vả suốt đêm dài, một chiếc lá nho vẫn còn hiện rõ mồn một trên bức tường gạch. Đó là chiếc lá nho cuối cùng còn sót lại. Cuống lá vẫn còn cái màu xanh đậm nhưng ven rìa lá răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, treo lơ lững như thách đố trên một giây nho cách mặt đất chừng hai chục thước.

"Đó là chiếc lá cuối cùng." Johnsy nói. "Mình cứ tưởng nó chắc phải rụng hồi đêm rồi. Mình nghe gió dữ lắm. Chắc nó sẽ rụng trong ngày hôm nay và mình cũng sẽ rụng theo."

"Nhỏ, nhỏ ơi." Sue vừa nói vừa dúi khuôn mặt mệt mõi của mình vào chiếc gối. "Nếu bạn không muốn nghĩ đến bản thân mình thì xin hãy nghĩ tới Sue đây. Sue phải làm sao đây?"

Nhưng Johnsy không trả lời. Cái sinh vật cô đơn khủng khiếp nhất trên thế gian này phải là cái linh hồn khi đã sẳn sàng đi vào một cuộc hành trình miên viễn, đầy huyền bí. Sự tưởng tượng hoang đường đó dường như càng ám ảnh cô gái mạnh mẽ hơn khi mối liên hệ với bạn bè và với trái đất này của cô cứ lỏng lẽo dần.

Ngày tàn dần, và dù trời nhá nhem tranh tối tranh sáng, họ vẫn có thể nhìn thấy chiếc lá nho duy nhất còn bám vào cuống giây nổi bật trên bức tường. Rồi đêm đến và những cơn gió bắc lụn dần, trong khi cơn mưa vẫn còn đập vào khung cửa sổ, và rơi lộp bộp dưới mái hiên.

Khi trời vừa hừng sáng, Johnsy thẩn thờ đòi kéo tấm màn che lên.

Chiếc lá vẫn còn đó.

Johnsy nằm yên lặng nhìn một lúc khá lâu. Rồi cô cất tiếng gọi Sue đang khuấy nồi súp gà trên cái lò gas.

"Mình thật là hư quá, Sudie ạ." Johnsy nói. "Một cái gì đó đã làm cho chiếc lá cuối cùng kia không chịu rụng làm mình cảm thấy xấu hổ quá, mình thật là tệ quá. Muốn chết đi thì quả là một điều ngu xuẩn. Bạn mang cho mình một chút súp đi, một ít sữa có pha chút rượu nho nữa; nhưng khoan, mang cho mình một cái gương nhỏ trước đã, rồi kê giùm mình mấy chiếc gối để mình có thể ngồi dậy nhìn bạn làm bếp."

Một giờ sau cô ta bảo:

"Sudie này, mình hy vọng có ngày sẽ vẽ Vịnh Naples."

Chiều hôm đó bác sĩ đến thăm. Sue cáo lỗi với bạn để đi ra hành lang gặp bác sĩ khi ông ta ra về.

"Có triển vọng tốt." Bác sĩ vừa nói vừa cầm lấy bàn tay gầy guộc và run rẩy của Sue. "Rán chăm sóc thì cô ấy sẽ khỏi. Bây giờ tôi phải đi thăm một bệnh nhân khác dưới lầu, tên là Behrman, nghe nói là một nghệ sĩ gì đó. Cũng bị viêm phổi. Ông ta già, yếu thành ra bị nặng lắm. Không có hy vọng gì; nhưng hôm nay sẽ đưa ông ta vào bệnh viện để được tiện nghi hơn."

Hôm sau bác sĩ bảo Sue:

"Cô ấy qua cơn nguy rồi. Cô đã thắng. Giờ chỉ cần ăn uống và tịnh dưỡng là đủ."

Chiều hôm đó, Sue đến bên Johnsy đang nằm trên giường bệnh, thắt lại chiếc khăn len quàng cổ màu thật xanh, quàng tay ôm lấy bạn, rồi ôm chiếc gối, tần mần tẩn mẩn...

"Mình có chuyện này muốn nói với bạn, con chuột bạch à." Cô ta nói. "Cụ Behrman đã mất trong bệnh viện ngày hôm nay vì bị viêm phổi. Cụ mắc bệnh chỉ có hai ngày. Hôm đầu tiên ông quản gia tìm thấy cụ nằm trong phòng có vẻ đau đớn lắm. Giày dép, quần áo cụ ướt sũng và lạnh như đá. Họ không tưởng tượng ra được cụ ấy đi đâu, làm gì trong một đêm gió mưa khủng khiếp như vậy. Sau đó họ tìm thấy chiếc đèn lồng vẫn còn cháy sáng, một chiếc thang được kéo lê ra từ trong kho, mấy chiếc cọ còn dính sơn và một hộp sơn pha trộn hai thứ màu xanh và vàng. Và bạn thử nhìn ra ngoài cửa sổ kia, nhìn vào chiếc lá nho cuối cùng trên bức tường đó. Bạn không cảm thấy ngạc nhiên là tại sao nó chẳng lung lay động đậy gì trong cơn gió à? Nhỏ ơi, nó chính là cái tác phẩm lớn của cụ Behrman đó. Cụ đã vẽ nó vào cái đêm chiếc lá nho cuối cùng rơi xuống."

Tác giả: O. Henry. Nguyễn Cao Nguyên dịch.

Ông ấy cần tôi


Cô y tá nọ hướng dẫn một chàng thanh niên với vẻ mặt hốt hoảng âu sầu tới bên giường bệnh của ông già . Cô nói : ”Ông ơi! Con trai ông đã tới đây này!” Cô phải nhắc lại nhiều bận thì ông già bệnh nhân mới mở mắt ra nhìn. Ông bị ảnh hưởng thuốc mê và cơn đau nên chỉ nhìn thấy lờ mờ người thanh niên đứng bên bình dưỡng khí ở đầu giường.

Ông giơ tay quờ quạng nắm lấy bàn tay người thanh niên, xiết chặt , không rời tay ra như cần một sự an ủi. Cô y tá lăng săng mang một chiếc ghế lại gần giường bệnh cho người thanh niên ngồi. Rồi suốt đêm đó, người thanh niên ngồi giữ bàn tay ông già và nói những lời an ủi đầy hứa hẹn. Người bệnh già thì chẳng nói đuợc câu gì , chỉ biết nắm chặt lấy bàn tay người thanh niên.

Sáng ngày ra, người bệnh nhân thở hắt ra và chết. Người thanh niên bùi ngùi đặt cái bàn tay bất động nọ xuống bên giường, và đi báo tin cho cô y tá. Trong khi cô ý tá làm thủ tục giấy tờ, người thanh niên tần ngần đứng bên cạnh. Khi cô làm xong thủ tục, cô ngỏ lời chia buồn với chàng thanh niên , thì chàng này hỏi cô rằng : "Ông ấy là ai vậy? tên là gì?” Cô y tá ngạc nhiên : "Tôi tưởng ông ta là cha anh?” Chàng thanh niên trả lời:” Không , ông ta không phải là cha tôi, tôi chưa hề gặp ông ta bao giờ, tôi vào thăm người bạn có lẽ cùng họ, nên cô dẫn tôi nhầm tới đây.”

Cô y tá kêu lên: “Ổ, thế sao anh không cho tôi biết khi tôi dẫn anh tới đây!”

Chàng thanh niên nọ chậm rãi: “Khi tôi được biết ông ta bệnh nặng khó qua khỏi, mà ông ta lại đang mong mỏi sự có mặt người con trai chưa tới được. Ông ta đã yếu quá cũng không nhận ra được ai cả, tôi cảm thấy ông ta rất cần tôi, nên tôi ở lại cũng có sao đâu!”

Lòng kiên nhẫn


Tôi là cựu giáo viên dạy nhạc tại một trường tiểu học ở DeMoines. Tôi luôn kiếm được lợi tức từ công việc dạy đàn dương cầm _ đó là một công việc mà tôi đã làm suốt 30 năm qua. Trong thời gian đó, tôi đã gặp nhiều trẻ em có những khả năng về âm nhạc ở nhiều cấp độ khác nhau. Tôi chưa bao giờ có hứng thú trong việc có học sinh thuộc dạng "cần nâng đỡ" mặc dù tôi đã từng dạy một vài học sinh tài năng. Tuy nhiên tôi cũng dành thì giờ vào những học sinh mà tôi gọi là "trơ nhạc". Một trong những học sinh đó là Robby.

Robby đã 11 tuổi khi mẹ cậu thả vào lớp trong bài học dương cầm đầu tiên. Tôi thích những học sinh (đặc biệt là những cậu bé) bắt đầu ở lứa tuổi nhỏ hơn, và nói điều đó với Robby. Nhưng Robby nói rằng mẹ cậu luôn luôn mơ ước được nghe cậu chơi dương cầm. Vì vậy tôi đã nhận cậu vào học. Thế là Robby bắt đầu những bài học dương cầm đầu tiên và tôi nghĩ rằng đó là sự cố gắng vô vọng. Robby càng cố gắng, cậu càng thiếu khả năng cảm thụ âm nhạc cần thiết để tiến bộ. Nhưng cậu rất nghiêm túc trong việc ôn lại những bài học và những bản nhạc sơ đẳng mà tôi yêu cầu cất cả các học sinh của mình đều phải học. Sau nhiều tháng ròng rã, cậu miệt mài cố gắng và tôi vẫn cứ lắng nghe và cố động viên cậu. Cứ hết mỗi bài học hàng tuần, cậu luôn nói: "Một ngày nào đó mẹ em sẽ đến đây để nghe em chơi đàn". Nhưng điều đó dường như vô vọng. Cậu không hề có một năng khiếu bẩm sinh nào. Tôi chỉ thấy mẹ cậu (một phụ nữ không chồng) ở một khoảng cách khá xa khi thả cậu xuống xe và chờ cậu trong một chiếc xe hơi cũ mèm khi đến đón cậu. Bà luôn vẫy tay và mỉm cười nhưng không bao giờ ở lại lâu.

Thế rồi một ngày nọ Robby không đến học nữa, tôi định gọi điện cho cậu nhưng thôi, bởi vì cậu không hề có chút năng khiếu nào, có lẽ cậu đã quyết định theo đuổi một con đường khác. Tôi cũng vui khi cậu không đến nữa. Cậu làm cho sự quảng bá trong việc dạy dỗ của tôi mất ưu thế! Vài tuần sau đó, tôi gởi đến nhà những học sinh của mình các tờ bướm thông báo cho buổi diễn tấu sắp tới. Trước sự ngạc nhiên của tôi, Robby (cũng đã nhận một tờ bướm) hỏi xem cậu có được tham dự biểu diễn hay không. Tôi bảo với cậu, buổi diễn chỉ dành cho học sinh đang học, vì cậu đã thôi học nên cậu sẽ không đủ khả năng thực hiện. Cậu nói rằng mẹ cậu đang ốm và không thể chở cậu đi học nữa, nhưng cậu vẫn luôn luyện tập. "Cô Hondorf… cô cho em diễn một lần thôi…", cậu nài nỉ. Tôi không hiểu điều gì đã xui khiến tôi cho phép cậu chơi trong buổi trình tấu đó. Có thể là cậu đã tha thiết quá, hoặc là một điều gì đó trong tôi đã bảo mách tôi rằng điều đó là đúng.

Đêm biểu diễn đã đến. Trong hội trường đông nghịt những phụ huynh, bạn bè và họ hàng. Tôi bố trí cho Robby ở cuối chương trình trước khi tôi xuất hiện để kết thúc và cảm ơn những học sinh đã trình diễn. Tôi nghĩ rằng tất cả những rủi ro mà cậu có thể gây ra cũng là lúc kết thúc và nếu có bề gì thì tôi cũng có thể "chữa cháy" cho sự biểu diễn yếu kém của cậu bằng tiết mục "hạ màn" của tôi. Và buổi biểu diễn trôi qua không một trở ngại nào. Những học sinh đã luyện tập nhuần nhuyễn và trình bày rất tốt. Thế rồi Robby bước ra sân khấu. A? quần cậu nhàu nát và mái tóc như tổ quạ.

"Tại sao cậu lại không ăn vận như những học sinh khác nhỉ? Tôi nghĩ "Tại sao ít ra mẹ cậu lại không chải tóc cho cậu vào cái đêm đặc biệt như thế này chứ? "

Robby mở nắp đàn lên và bắt đầu. Tôi ngạc nhiên khi thấy cậu tuyên bố rằng cậu chọn bản Concerto số 21 cung Đô trưởng của Mozart. Tôi hoàn toàn bất ngờ khi nghe những gì tiếp theo đó. Những ngón tay của cậu lấp lánh, nhảy múa trên những phím ngà. Cậu đã chơi những giai điệu từ nhẹ nhàng êm dịu đến hùng tráng… thật có hồn và đầy điêu luyện trong sự phối âm tuyệt diệu của nhạc Mozart. Chưa bao giờ tôi nghe một đứa trẻ ở tuổi ấy trình bày nhạc Mozart hay đến thế. Sau 6 phút rưỡi cậu đã kết thúc trong một âm thanh huy hoàng mạnh mẽ và mọi người đều đứng lên vỗ tay. Không nén được lệ tràn trong mắt, tôi chạy lên sân khấu và vòng tay ôm lấy Robby trong hạnh phúc: "Cô chưa bao giờ nghe em chơi hay như thế Robby ạ. Làm sao em có thể làm được điều đó? ". Robby giải thích qua chiếc micro "Thưa cô Hondorf… cô có nhớ là em đã kể rằng mẹ em đang ốm? Thực ra, mẹ em đã bị ung thư và qua đời sáng nay. Mẹ em bị điếc bẩm sinh vì vậy đêm nay là đêm đầu tiên mẹ em nghe thấy em đàn. Em muốn làm điều gì đó thật là đặc biệt".

Tối hôm ấy, trong hội trường không đôi mắt nào không nhỏ lệ. Khi những người ở Trại Xã Hội đưa cậu từ sân khấu trở về trại mồ côi tôi nhận thấy mắt họ đỏ và sưng mọng. Tôi chợt nghĩ, đời tôi nhiều ý nghĩa biết bao khi đã từng nhận một học sinh như Robby. Không, tôi chưa bao giờ nhận một học sinh nào "cần nâng đỡ", nhưng đêm đó tôi trở thành người được nâng đỡ bởi Robby. Cậu là thầy của tôi và tôi chỉ là một học trò. Bởi vì cậu đã dạy cho tôi ý nghĩa của sự kiên trì, của tình yêu và niềm tin trong chính con người của chúng ta và điều đó có thể tạo ra cho người khác một cơ hội mà chúng ta không biết vì sao. Điều này càng đặc biệt ý nghĩa hơn khi sau này tôi biết Robby bị chết trong vụ nổ bom điên rồ tại tòa nhà Alfred P. Murrah Federal ở thành phố Oklahoma vào tháng 4 năm 1995 nơi cậu đang biểu diễn.

Nhị Tường dịch. Nguồn Reader’s Digest

Bức Tranh


Ngày xưa, có một họa sĩ tên là Ranga, một người siêu việt, vẽ được rất nhiều kiệt tác đáng ghi nhớ khiến ai cũng đều khen ngợi.

Ông mở một lớp học mỹ thuật để dạy nghề cho mọi người và cũng để tìm đệ tử nối nghiệp. Ông không mấy khi khen ngợi ai, cũng không bao giờ đề cập đến thời gian của khóa học. Ông nói, một học trò chỉ có thể thành công khi ông hài lòng với kỹ năng và hiểu biết của người đó. Ông truyền cho học trò những phương pháp đánh giá, ước định của ông, và chúng cũng độc đáo như những tác phẩm của ông vậy. Ông không bao giờ thổi phồng tầm quan trọng của những bức tranh hay sự nổi tiếng, mà ông luôn nhấn mạnh đến cách xử sự, thái độ với cuộc sống của học trò.

Trong một số lượng lớn học trò, Rajeev là một người có tài nhất, chăm chỉ, sáng tạo, nên anh ta tiếp thu nhanh hơn nhiều so với các bạn đồng môn. Ông Ranga rất hài lòng về Rajeev.

Một ngày kia, sau bao nhiêu cố gắng, Rajeev được ông Ranga gọi đến và bảo:

- Ta rất tự hào về những tiến bộ mà con đã đạt được. Bây giờ là thời điểm con làm bài thi cuối cùng trước khi ta công nhận con thực sự là một họa sĩ tài năng. Ta muốn con vẽ một bức tranh mà ai cũng phải thấy đẹp, phải khen ngợi.

Rajeev làm việc ngày đêm, trong rất nhiều ngày và đem đến trình thầy Ranga một bức tranh tuyệt diệu. Thầy Ranga xem qua rồi bảo:

- Con hãy đem bức tranh này ra đặt ở quảng trường chính, để tất cả mọi người có thể chiêm ngưỡng. Hãy viết bên dưới bức tranh là tác giả sẽ rất biết ơn nếu bất kỳ ai có thể chỉ ra bất kỳ sơ suất nào trên bức tranh và đánh một dấu X vào chỗ lỗi đó.

Rajeev làm theo lời thầy: đặt bức tranh ở quảng trường lớn với một thông điệp đề nghị mọi người chỉ ra những sơ suất.

Sau hai ngày, Ranga đề nghị Rajeev lấy bức tranh về. Rajeev rất thất vọng khi bức tranh của mình đầy dấu X. Nhưng Ranga tỏ ra bình tĩnh và khuyên Rajeev đừng thất vọng, cố gắng lần nữa. Rajeev vẽ một kiệt tác khác, nhưng thầy Ranga bảo phải thay đổi thông điệp dưới bức tranh. Thầy Ranga nói phải để màu vẽ và bút ngay cạnh bức tranh ở quảng trường và đề nghị mọi người tìm những chỗ sai trong bức tranh và sửa chúng lại bằng những dụng cụ để vẽ ấy.

Hai ngày sau, khi lấy tranh về, Rajeev rất vui mừng khi thấy bức tranh không bị sửa gì hết và tự tin đem đến chỗ Ranga. Ranga nói:

- Con đã thành công vào ngày hôm nay. Bởi vì nếu chỉ thành thạo về mỹ thuật thôi thì chưa đủ, mà con còn phải biết rằng con người bao giờ cũng đánh giá bừa bãi ngay khi có cơ hội đầu tiên, cho dù họ chẳng biết gì về điều đó cả. Nếu con luôn để cả thế giới đánh giá mình, con sẽ luôn thất vọng. Con người thích đánh giá người khác mà không nghĩ đến trách nhiệm hay nghiêm túc gì cả. Mọi người đánh những dấu X lên bức tranh đầu tiên của con vì họ không có trách nhiệm gì mà lại cho đó là việc không cần động não. Nhưng khi con đề nghị họ sửa những sơ suất thì không ai làm nữa, vì họ sợ bộc lộ hiểu biết - những thứ mà họ có thể không có. Nên họ quyết định tránh đi là hơn. Cho nên, những thứ mà con phải vất vả để làm ra được, đừng dễ dàng bị ảnh hưởng bởi đánh giá của người khác. Hãy tự đánh giá mình. Và tất nhiên, cũng đừng bao giờ đánh giá người khác quá dễ dàng.

Cuốn sách và giỏ đựng than


Có một câu chuyện kể rằng tại một trang trại ở miền núi xa xôi, miền Đông bang Kentucky, có một ông cụ sống với người cháu của mình. Mỗi buổi sáng, ông cụ đều dậy rất sớm để đọc sách. Có những cuốn sách ông đã đọc nhiều lần, đến mức cuốn sách sờn cũ, nhưng lúc nào ông đọc cũng say mê và chưa một buổi sáng nào ông quên đọc sách.

Cậu cháu trai cũng bắt chước ông, cũng cố gắng mỗi ngày đều ngồi đọc sách. Rồi một ngày, cậu hỏi ông:

- Ông ơi, cháu cũng thử đọc sách như ông, nhưng cháu không hiểu gì cả. Hoặc là có những đoạn cháu hiểu, nhưng khi gấp sách lại là cháu quên ngay. Thế thì đọc sách có gì tốt đâu mà ông đọc thường xuyên thế ạ...

Ông cụ lúc đó đang đổ than vào lò, quay lại nhìn cháu và chỉ nói:

- Cháu hãy đem cái giỏ đựng than này ra sông và mang về cho ông một giỏ nước nhé!

Cậu bé liền làm theo lời ông, dù rằng tất cả nước đã chảy ra hết khỏi giỏ trước khi cậu bé quay về đến nhà.

Nhìn thấy cái giỏ, ông cụ cười và nói:

- Nước chảy hết mất rồi! Có lẽ lần sau cháu sẽ phải đi nhanh hơn nữa!

Rồi ông bảo cháu quay lại sông lấy một giỏ nước.

Lần này cậu bé cố chạy nhanh hơn, nhưng lại một lần nữa, khi cậu về đến nhà thì cái giỏ đã trống rỗng. Thở không ra hơi, cậu nói với ông rằng “đựng nước vào cái giỏ là điều không thể”, rồi đi lấy một chiếc xô để múc nước. Nhưng ông cụ ngăn lại:

- Ông không muốn lấy một xô nước. Ông muốn lấy một giỏ nước cơ mà! Cháu có thể làm được đấy, chỉ có điều cháu chưa cố hết sức thôi!

Rồi ông lại bảo cháu ra sông lấy nước. Vào lúc này, cậu bé đã biết rằng không thể đựng nước vào giỏ được, nhưng cậu muốn cho ông thấy rằng dù cậu chạy nhanh đến đâu, nước cũng sẽ chảy hết ra khỏi giỏ trước khi cậu về đến nhà. Thế là cậu bé lại lấy nước, lại chạy nhanh hết sức, và khi về đến chỗ ông, cái giỏ lại trống rỗng.

- Ông xem này - Cậu bé hụt hơi nói - Thật là vô ích!

- Cháu lại nghĩ nó là vô ích ư... - Ông cụ nói - Cháu thử nhìn cái giỏ xem!

Cậu bé nhìn vào cái giỏ, và lần đầu tiên, cậu bé nhận ra rằng cái giỏ trông khác hẳn ban đầu. Nó không còn là cái giỏ than đen bẩn nữa, mà đã được nước rửa sạch sẽ.

- Cháu của ông, đó là những gì diễn ra khi cháu đọc sách. Có thể cháu không hiểu hoặc không nhớ được mọi thứ, nhưng khi cháu đọc, sách sẽ thay đổi cháu từ bên trong tâm hồn, như nước đã làm sạch giỏ than kia vậy.